Thứ Năm, 12 tháng 3, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 173


Truyện Tình Hai Họ Dương Hà
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 15

“Đường tây bắc bao la nhung nhớ
Quê hương giờ sương nhỏ mộ bia
Nâu sồng tràng hạt trau tria
Ngẫm mình từ độ xuất gia tu hành


Ba năm trường mong manh áo vải
Bụi trần gian tê tái quan san
Mùi thiền quen cảnh bần hàn
Người chê kẻ trách phàn nàn hiếu trung

Lỗi cương thường mịt mùng bấn loạn
Quỷ thần cười ngao ngán đường tu
Ăn chay dưa muối đông thu
Xuân hè uổng phí công phu cúng dường

Lời đàm tiếu chán chường thiên hạ
Chốn thị phi rệu rã tha phương
Màn trời chiếu đất thê lương
Bát cơm manh áo gió sương dật dờ“

Dương Từ cứ canh cánh mãi trong lòng, không hiểu nổi vì sao do phép mầu nhiệm nào mà vợ mình ngót 60 tuổi đời mà vẫn sinh ra được hai đứa con trai? Chàng lại cho rằng vợ Đỗ Nương chăm đi lễ chùa cầu phật mà nhận được phúc báo này. Cho nên để trả ơn nhà Phật quyết xuống tóc đi tu được 3 năm rồi nhưng vẫn không an tâm tụng kinh gõ mõ, đầu óc vẫn còn nhiều tạp niệm nên chàng quyết xin phép Sư phụ cho đi chu du thiên hạ một chuyến để mở mang tầm mắt. Chàng đi về hướng tây bắc miền Tùng Lãnh thuộc địa phận Khiết Đan có môn phái võ và đạo tu tiên chân nhân.

“Thân cò vạc bơ vơ xứ sở
Quê hương người tạm bợ sớm khuya
Vợ con xa cách chia lìa
Nắng mưa tầm tã bên rìa rừng hoang

Chống thiền trượng lang thang đây đó
Khi cô đơn biết tỏ cùng ai?
Chạnh lòng nghĩ chuyện khứ lai
Vợ con bìu ríu ngày mai thế nào?

Nghe lá rụng lao xao gió thổi
Thấy tam kỳ chẳng vội làm chi
Rùng rằng ngơ ngác chim di
Đông tây nam bắc đường đi chẳng rành

Thấp thoáng thấy liễu xanh bám cổng
Dương Từ mừng lóng ngóng trông lên
Cổ đình sừng sững trên nền
Thanh Phong bảng hiệu ngang nhiên dưới trời“

Đường đi rẽ ba ngả gọi là tam kỳ lộ ở một ngôi đình cổ. Dương Từ phân vân không biết đi ngả nào thì lại đọc tấm liễn tức là một tấm biển có ghi dòng chữ:

“Đường đi ba ngã người Chu khóc
Tơ trắng hai màu ngã Địch than”
Nỗi niềm nhân thế chứa chan
Sòng đời đen trắng gian nan hiểm nghèo

Xem liễn đối hắt heo cành liễu
Rồi Dương Từ cũng hiểu ra ngay
Đường ba bảy lối quắt quay
Tơ kia dễ nhuộm ai hay lòng người

Chí đã quyết thảnh thơi buông bỏ
Lòng thạch kim chứng tỏ thiền môn
Chớ nghe thiên hạ mà buồn
Sân si cuồng dại bồn chồn gió trăng

Chả mấy chốc thung thăng sườn núi
Chốn thiên thai sầu tủi làm chi
Dâu xanh suối mát rầm rì
Lời ca non nỉ thầm thì bên tai…“

Đường đi ba ngã hay ba ngả người Chu khóc. Chu tức Dương Chu, một triết gia đời Chiến quốc người nước Vệ, chủ trương thuyết vị ngã vì mình. Trong sách liệt sử có ghi chép:
Người hàng xóm của Dương tử bị mất dê, phải nhờ họ hàng bà con lối xóm đi tìm giúp. Dương Từ hỏi:
-Chỉ mất một con dê sao ông lại phải nhờ nhiều người đi tìm thế?
Trả lời:
-Vì có nhiều đường rẽ
Khi tất cả trở về, Dương Tử hỏi:
-Tìm được dê chưa?
Trả lời:
-Mất rồi!
Hỏi:
-Sao lại mất?
Trả lời:
-Trong đường lớn có nhiều đường rẽ, trong đường rẽ lại có nhiều đường rẽ khác. Nên không biết dê chạy đi ngả nào
Dương Chu tự nhiên thay đổi sắc mặt, cả ngày không nói không cười. Câu chuyện này có ý nghĩa triết học: Gốc thì đồng nhưng ngọn thì lại khác. Vì vậy người đời cần thận trọng suy xét để khỏi nhầm lẫn.
 “ Tơ trắng hai màu ngã Địch than“. Họ Địch tức Mặc Địch một triết gia thời cổ đại ở nước Lỗ chủ trương thuyết “ Kiêm ái”. Trong đại từ điển hán văn Tố ty chép:
 ”Mặc Tử kiến luyện ty nhi khấp chi, vị kỳ khả dĩ hoàng, khả dĩ hắc”
Mặc Địch thấy tơ luyện trắng mà khóc, vì nó có thể nhuộm thành màu đen, đỏ hay vàng.
Cả hai câu thơ than vãn của Dương Chu và Mặc Định cho rằng con người có thể bị thay đổi biến hoá không lường không thể nào còn giữ được bản chất nguyên thủy sơ sinh của nó.


Truyện Tình Hai Họ Dương Hà
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 16

“Dải Tần Hoài còn ai nức nở
Lúc sang giàu cổ độ trăng soi
Bến Hà Châu vẫn có đôi
Thư cưu trống mái thuyền xuôi mái chèo“

Tần hoài còn gọi là sông Dương tử con sông lớn nhất bên Tàu, nơi xây đập Tam Hiệp. Hà Châu cũng là một bến nổi tiếng bên sông. Nơi có giống chim thư cưu luôn một cặp trống mái như vợ chồng ân ái thủy chung vậy.

„Khi có bậu cảnh nghèo hiu hắt
Ngọn gió đông cắn hạt bí ngô
Đò xưa đàn cá nhấp nhô
Tình xuân hoa bướm lô xô qua về“

Bậu qua là tiếng miền Nam Việt Nam lối xưng hô thân thiết của người trên đối với kẻ dưới hay thường là chồng với vợ.

“Đêm trăng sáng say mê Lộng Ngọc
Tiêu Sử mừng dạy học ống tiêu
Chập chờn cánh phụng phiêu diêu
Xe duyên kết chỉ cầu kiều bắc ngang“

Theo liệt tiên truyện thì nàng Lộng Ngọc con gái út của Tần Mục Công rất xinh đẹp. Nàng say mê Tiêu Sử là một chàng trai có tài thổi sáo khiến cho chim phượng hoàng bay đến múa lượn. Sau đó hai người thành thân và cùng cưỡi phụng lên cõi tiên.

“Dương Từ càng mơ màng ngây ngất
Bước lại gần nghe thật ngậm ngùi
Thấy hai cô gái mang gùi
Lá dâu xanh mướt thơm mùi tóc mây

Hoa diếp dại cỏ may xào xạc
Há hốc mồm kinh ngạc hai nàng
Ông sư lầm lũi bên đàng
A Di Đà Phật nhẹ nhàng hỏi thăm

Chùa Linh Diêu xa xăm vạn nẻo
Kỳ lộ nhiều vắt vẻo phương nào?
Hai cô gái nhỏ thì thào
Con nai ngơ ngác bướm đào ngây thơ

Chị em tôi dại khờ sơn nữ
Đạo ông bà gìn giữ tổ tiên
Thôn trang vui cảnh điền viên
Mẹ cha sớm tối bạc tiền cần chi

Thầy tu muốn hỏi gì sao biết
Tìm vãi bà thân thiết ni cô
Đường đi lắt léo chi mô
Nhà Khương giống ấy ô hô phấn hồng“

Dương Từ đang choáng ngợp bởi cảnh non nước sơn thủy hữu tình bất ngờ gặp hai cô sơn nữ nhưng lại tỏ ra lạnh nhạt với chàng, không chịu chỉ đường cho chàng vì chàng là một nhà sư, đã thoát tục chẳng màng gì đến chuyện ân ái nhục dục. Hai cô còn trêu ghẹo chàng nên đi tìm ni cô hay bà vãi mà hỏi đường.

“Mấy đường chay không không sắc sắc
Trẻ rong chơi phước bạc tu trì
Có câu lão kỹ vi ni
Thúy Kiều lạc lối má mì lầu xanh

Không biết lối thôi đành chịu vậy
Đứng thở than chán ngấy cảnh đời
Trọc đầu chi để tiếng cười
Tấm thân sư vãi chơi vơi nẻo trần“

“Lão kỹ vi ni“ là câu nói trịnh thượng ngạo mạn của những nhà nho cổ hủ trái hẳn với cái đức khiêm nhường tôn trọng lễ nghi của Khổng Tử, giải nghĩa là:
-“Đĩ già đi tu“
Thân trọc có nghĩa là đầu thì cạo trọc hết tóc, còn thân thì trần trụi chẳng có cái quái gì dứt bỏ hết việc đời mọi chuyện yêu thương ân ái khổ đau muộn phiền…

“Từ liều lĩnh tần ngần đi tới
Đường gập ghềnh chẳng vội đông nam
Bảng đề rõ Bạch Vân Nham
Một tòa miếu cổ trăng rằm trống trơn

Đói rách lòng không hờn mẹ ghẻ
Lạnh đau dạ chẳng trách cha lành
Thấy câu liễn đối song hành
Thương con hiếu thảo ngọn ngành xét suy

Bao trắc trở gian nguy nểm trải
Muốn vào coi lại ngại chiêm bao
Tượng thờ thần ở phương nào?
Văn hay chữ tốt đi sao cho đành”

Câu liễn đối đó viết về Mẫn Tử có tên gọi là Mẫn Tốn tự là Tử Khiên người nước Lỗ kém ông Khổng Tử khoảng 50 tuổi, tính tình liêm khiết và rất hiếu thảo. Ông nổi tiếng về đức hạnh nên được dự vào khoa đức hạnh nơi cửa Khổng còn được liệt vào trong nhị thập tứ hiếu. Khi còn nhỏ ông bị bà mẹ ghẻ ngược đãi. Những ngày mùa đông bà cho con đẻ mặc áo vải bông ấm, còn bắt ông mặc áo lau nên trời gía lạnh hai tay tê cóng toàn thân run lên lập cập không đẩy xe cho cha đi được. Người cha thấy vậy biết rõ tình trạng mẹ ghẻ con chồng nên tỏ ra tức giận, toan đuổi mẹ ghẻ đi thì Mẫn Tử Khiên quỳ xuống van xin cha đừng đuổi mẹ ghẻ đi, ông thưa với cha rằng:
-Nếu cha để dì ghẻ ở lại thì chỉ mình con chịu rét, còn nếu cha đuổi dì ghẻ đi thì chẳng những con và cả hai em con cũng phải chịu rét
Người cha suy nghĩ lại, đúng như lời Tử Khiên nói mà thuật lại lời nói của Tử Khiên cho bà vợ kế. Bà cảm động hồi tâm mà thương mến Tử Khiên đối xử công bằng như con ruột của mình vậy.

10.3.2020 Lu Hà






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét