Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 190


Truyện Tình Hai Họ Dương Hà
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 48

“Quan tổng trấn Tần công chu đáo
Nhờ vận may ai bảo dắt dê
Nuôi bò chăn ngỗng trở về
Hai chàng xe ngựa đề huề cử nhân


Thưa cậu mẹ hôn nhân trời định
Chuyện trăm năm dự tính ra sao?
Chị em họ Đỗ nghẹn ngào
Vui mừng khôn xiết xôn xao xóm làng

Mở rộng thêm khang trang nhà cửa
Lối Tràng An sắm sửa bộ hành
Tựu trường thi hội xướng danh
Dương Trân bảng nhãn Bửu giành thám hoa

Tuy chưa được nguyên khoa đỗ trạng
Kỳ thi đình tỏ rạng văn bia
Nhất nhì huynh đệ phân chia
Họ Dương tài tử trau tria bảng vàng“

Quan tổng trấn còn gọi là Tổng đốc là một chức quan của chế độ phong kiến trao cho viên quan đứng đầu một vùng hành chính gồm nhiều tỉnh thành. Tổng đốc coi mọi mặt về dân sự lẫn quân sự trong địa hạt mình quản lý. Chức Tổng đốc được áp dụng tại China hai triều Minh - Thanh và một số nước Đông Á lân cận , trong đó có Việt Nam thời nhà Nguyễn. Đọc Truyện Kiều ai cũng biết viên tổng đốc vô liêm là Hồ Tôn Hiến.

Chức vụ tổng đốc được thiết lập năm Cảnh Thái thứ 3  thời Minh Đại Tông, theo lời tấu của Vu Khiêm để lập ra chức Tổng đốc Lưỡng Quảng. Vương Cao là vị tổng đốc đầu tiên[, nhưng chưa có trụ sở làm việc cố định. Tới năm Thành Hóa dưới thời Minh Hiến Tông, phủ làm việc của tổng đốc Lưỡng Quảng tại Ngô Châu mới chính thức được lập ra. Tổng đốc Lưỡng Quảng khi đó là Hàn Ung.

Tôi đang viết truyện thơ kể về hai họ Mậu Hà cảm xúc theo thơ lục bát của cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng không chắc chắn lắm triều nhà Tấn có chức quan này còn lớn hơn cả quan thái thú.

Các khoa thi hội và thi đình mở vào mùa xuân. Trruwowownfg An kinh đô có bắt đâù từ thời Hán, thuộc huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây. Về sau chữ Trường An là tên gọi chung chỉ thủ đô của một nước, Việt Nam cũng bắt trước Tàu gọi thủ đô của mình là Trường An, kinh thành Huế ngày xưa có tên là Đồ Bàn thuộc vương quốc Chiêm Thành hay Chăm Pa cũng được gọi là Trường An.

Đầu ngao là loại rùa biển, đầu rất to. Ngày xưa đỗ Trạng Nguyên gọi là độc chiếm đầu ngao. Theo lệ cứ sau khi xướng danh những người đỗ cao nhất được mời vào đại điện đúng chỗ có khắc rồng và ngao. Hai anh em Dương Trân và Dương Bửu không đoạt giải Trạng Nguyên nhưng lại là Bảng Nhãn vị trí thứ hai và Thám Hoa thứ ba. Kỳ thi năm đó không có ai là Trạng Nguyên cả.

„Tiệc quỳnh lâm thượng hoàng triều kiến
Trước sân rồng đại diện quan trường
Quyển thi đệ nhất văn chương
Thâm sâu uyên bác Tấn vương thỏa lòng

Bậc hiền tài trẫm phong lục phẩm
Cả hai khanh như tấm gương trong
Trung quân ái quốc một lòng
Cung thiềm tháp nhạn cũng dòng á khôi

Mũ cánh chuồn bồi hồi gấm vận
Chiếu chỉ truyền tới trấn Hà Đông
Ngựa xe cờ biển chiêng cồng
Tiền hô hậu ủng vợ chồng Tần khanh

Khắp châu huyện phải nhanh chuẩn bị
Quan tân khoa tạm nghỉ qua đêm
Các nơi quán dịch buông rèm
Nam khương hồ hởi êm đềm tiệc hoa

Quân hộ vệ chói lòa gươm giáo
Thật nguy nga bố cáo toàn dân
Tiếng thơm tỏa khắp xa gần
Uy danh họ Đỗ  thêm phần họ Dương

Trẻ tới già bên đường chen chúc
Vệ với cơ thúc giục đi mau
Sắc xuân tía đỏ phô màu
Thổi kèn gióng trống sang giàu hiển vinh

Cậu nuôi dưỡng phỉ tình non nước
Chốn Hạc lầu quỳ trước Sư môn
Sân Trình cửa Khổng suy tôn
Văn hay chữ tốt càn khôn thánh hiền

Lập văn tế tổ tiên bài vị
Nhớ phụ thân rên rỉ khóc than
Cha con cốt nhục xương tàn
Rừng sâu núi đỏ gian nan trập trùng

Lễ tam sinh thủy chung Nho đạo
Xế bóng chiều tam giáo cách ly
Não nùng ở chốn u tỳ
Nghĩ câu phong mộc nhung y cảm phiền.“

Cung thềm tháp nhạn là chỗ đứng của Bàng Nhãn và Thám Hoa. Câu thơ ý nói hai anh em họ Dương tuy không phải là Trạng Nguyên thì cũng là á khôi. Giống như thi sắc đẹp người đẹp thứ hai sẽ được trao vương miện á hậu.

Lầu hạc có ý nghĩa về một giống chim hạc sống dai đến ngàn năm, nên mới có chữ tuổi hạc là sự sống lâu. Câu:“Trãng xế nhà xuân, mây giăng lầu hạc“, ý nói niềm thương tiếc người cha quá cố. Nhưng thực ra Dương Từ vẫn còn sống ở trên núi tiên học theo các đạo sĩ, anh em Dương Trân và Dương Bửu không biết rõ đó thôi

Sự vinh quang của một sĩ tử có sẵn từ những kiến thức học vấn được trau giồi huân tập thực sự sẽ được trọng vọng     qua các nghi lễ trang nghiêm như lập bàn vọng thiên. Bàn cúng để ngoài trời trước nhà mình bằng lễ tam sinh gôm ba con vật bị làm thịt cúng tế như bò, lợn và dê.

Phong mộc hay phong thụ có nguồn gốc từ câu:“Thụ dục tĩnh nhi phong bất chỉ, tử dục dưỡng nhi thân bất đãi“ nghĩa là: cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, con muốn phụng dưỡn đền đáp công ơn mà cha mẹ không còn nữa trên cõi đời này.



Truyện Tình Hai Họ Dương Hà
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 49

°Đọc hai chữ mặc liên thơ cũ
Khóc người xưa trú ngụ nơi nào?
Bỗng nhiên biền biệt thế sao
Nhà tranh mái rạ nghẹn ngào ly tao

Miền giá lạnh âm hao chẳng rõ
Trà Thạch còn cổ mộ trăng soi
Sông Tương cá nước mặn mòi
Thông kinh làu sử hẹp hòi công danh

Gối hoàng lương thôi đành để vậy
Giấc kê vàng lại thấy Nam kha
Bôn ba trong cõi ta bà
Cà sa bình bát sơn hà nổi trôi“

 Mặc Liên là câu thơ nói về một nhân vật có thật ở quê hương cụ Nguyễn Đình Chiểu chứ không phải đời nhà Tấn bên tên là Mạc Cửu đã chiêu tập dân xiêu tán người Hoa, Việt mở phố xá, xây thành lũy, đẩy mạnh khai hoang lập ra bảy thôn trải dài ven biển từ Chân Lạp về tận Cà Mau.

Với chủ trương để cho dân khai hoang tự do, không thu tô thuế, chỉ đứng ra tổ chức mua sản phẩm để bán lại cho khách buôn. Chính điều này đã quy tụ dân cư đến Mang Khảm ngày càng đông. Ghe thuyền các nơi, kể cả nước ngoài đến mua bán tấp nập. Sự thịnh vượng khiến cho đất này gặp tai họa.
   
Quân Xiêm vào cướp phá Mương Khảm, bắt Mạc Cửu đưa về Xiêm ở Vạn Tuế Sơn . Sau đó, ông trốn về Lũng Kỳ (Lũng Cả), dân xiêu tán tụ về với ông ngày một đông, nhưng do địa thế chật hẹp, ông mới trở về Phương Thành (Hà Tiên).

Thi sĩ Đông Hồ có thơ nói về công trạng của hai cha con họ Mạc như sau:

 Nghĩ vịnh Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích
   
“Chẳng đội trời Thanh Mãn
Lần qua đất Việt bang
Triều đình riêng một góc
Trung hiếu vẹn đôi đường
Trúc thành xây vũ lược
Anh Các cao văn chương
Tuy chưa là cô quả
Mà cũng đã bá vương
Bắc phương khi vỡ lở
Nam hải lúc kinh hoàng
Giang hồ giữa lang miếu
Hàn mạc trong chiến trường
Đất trời đương gió bụi
 Sự nghiệp đã tang thương...“

“Nơi chôn rau than ôi cắt rốn
Cảnh chùa chiền bề bộn khói hương
Phu thê tình nghĩa vấn vương
Canh gà eo óc chán chường buồn thiu

Cắp thiền trượng đìu hiu gió thổi
Hai trẻ thơ nông nỗi xa lìa
Sương rơi đầu ngõ đầm đìa
Hạt châu lã chã bên rìa rừng hoang

Trọn tấm lòng nén nhang u uẩn
Dâng hay tay kính cẩn cha già
Cù lao chín chữ khắc bia
Sinh thành dưỡng dục chẳng lìa xa nhau

Ngoài bảy mươi bạc màu sương gió
Mảnh hồn mây biết tỏ cùng ai
Cậu nuôi khôn lớn thành tài
Mẹ già cô quạnh khứ lai tủi hờn

Buổi chiều tà chập chờn đom đóm
Gà lên chuồng từng khóm đung đưa
Cúc tần tầm tã nắng mưa
Rào thưa vườn trống muối dưa qua ngày

Đời thiếu phụ đắng cay rầu rĩ
Ngọn đèn dầu thủ thỉ tâm tình
Trên tường cái bóng lung linh
Hai con gặng hỏi dáng hình của cha

Hòn vọng phu thiết tha chờ đợi
Chốn thiên thai vời vợi xa xôi
Trèo đèo lội suối than ôi
Rừng sâu vực thẳm núi đồi bao la

Tình phủ tử xót xa ảo não
Con theo cha tam bảo lẽ nào? 
Nam nhi quân tử sĩ hào
Sân Trình cửa Khổng bước vào thảnh thơi

Theo Nho gia thức thời kẻ sĩ
Nợ thanh khâm liêm sỉ làm người
Giúp vua trị quốc cứu đời
Mọi nhà no ấm muôn nơi thái hòa

Đọc văn tế khói nhòa ảm đạm
Đỗ nương nghe buồn thảm góc trời
Hai quan lục phẩm lệ rơi
Cây rung hạt lệ lòng người cảm thương

Đoạn thơ trên tôi mô tả tình cảm của hai anh em Dương Trân Dương Bửu sau khi đỗ đạt được triều đình phong chức tước coi như đã trả xong nợ thanh khâm để báo hiếu công ơn nuôi dưỡng sinh thành của cha mẹ và cậu. Nhất là người cha thì hai anh em tưởng rằng đã qua đời còn lập bài vị đọc văn tế. Đoạn thơ rất dễ hiểu, vậy xin miễn bình giảng giải thích ý nghĩa về câu chữ nhiều nữa.

4.4.2020 Lu Hà


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét