Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 31
Tiều than thở xuôi dòng thời cuộc
Cánh chim di thân thuộc giống nòi
Phận bèo nhân phẩm trọng coi
Giúp mai táng thê lương cố quốc
Vợ chôn chồng bạc phước hầu non
Bạn bè làng xóm héo hon
Chia phần tang tóc đàn con đói nghèo
Biết bao nhiêu gian neo cảnh ngộ
Án dân oan thống khổ phũ phàng
Ngẫm câu: ” xuất tội hoạt hàng”
Ra tay cứu nạn mọi đàng lợi sinh
Hận ngút trời điêu linh xã hội
Hôn quân kia tội lỗi gây ra
Triều đình hủ bại quan nha
Cường hào ác bá sơn hà nhượng Kim
Đất U, Yên đắm chìm năm tháng
Chúa Liêu kia trác táng điêu ngoa
Dân đen giọt lệ nhạt nhòa
Tấn vương quỳ mọp thềm hoa tiệc tùng
Nghề thày thuốc hang cùng ngõ hẻm
Chữa ngọng đui chẳng kém tiền nhân
Nhân Sư nổi tiếng xa gần
Tinh thông y thuật muôn dân cậy nhờ
Câu” vi thiện” bùn nhơ chẳng ngại
Khắc bia son quan tái gốc trời
Đạo con hiếu thuận muôn nơi
Thảo nhờ cha mẹ tình người vấn vương
Thầy Tăng Tử yêu thương phụ mẫu
Học Chu Công dấu chú mọi đằng
Noi gương Văn Vũ Thành Thang
Sớm khuya thăm hỏi lầu trang mặn mà
Học họ Ngu gian tà né tránh
Chuyện trăm nhà hiển hách biết bao
Tiếng thơm công đức dồi dào
Con lành cháu thảo tự hào tổ tông
Hai mươi bốn thảo trồng gieo cấy
Lấy âm công nhờ cậy gốc nho
Sách tra Vĩnh loại nhiều pho
Thể nhân vị lục học trò anh minh
Ngư hỏi việc bất bình chế độ
Bầy quan tham quốc khố chia nhau
Giả vờ từ thiện làm màu
Cúng tiên thờ Phật cửa sau lạy tiền
Xây chùa to đảo điên miếu mạo
Khói nhang đèn lếu láo ê a
Làm chay hát bội thí ra
Oan gia trái chủ vịt gà đầu heo
Nhập Môn cười chó mèo xương xẩu
Bầy xướng ca cánh hẩu dễ hư
So câu: “ tích thiện hữu dư”
Cho vay một vốn lợi từ mười phân.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
11.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 32
Bầy con buôn chiếm phần lợi lạc
Đám nhà giàu kiếm chác đánh hơi
Đất đai hoàng tộc khắp nơi
Vương tôn công tử ăn chơi điếm đàng
Dân tứ xứ xóm làng tàn tạ
Lành có đâu mà trả dữ đền
Màn trời chiếu đất đôi bên
Đường dài cát bụi chẳng nên trách trời
Đoàn hành khất tả tơi thảm thiết
Lê gót chân chẳng biết đi đâu
Nhớ câu:“ thiện ác đáo đầu
Nổi trôi vận nước bể dâu đoạn trường
Am Bảo Dưỡng khách thường lai vãng
Rừng lâm y ló rạng sương mai
Ngậm ngùi nghĩ chuyện khứ lai
Tinh thông y thuật hương lài thoảng bay
Bậc đại phu lòng ngay dạ thẳng
Đạo cương thường quyết chẳng phụ ai
Nỗi niềm day dứt nguôi ngoai
Vợ bìu con rín u hoài khổ đau
Nơi cắt rốn chôn rau tang tóc
Quê hương mình lăn lóc thê lương
Giặc còn dày xéo nhiễu nhương
Gian thần lũng đoạn khuyển dương đọa đầy
Hãy ở lại nơi đây ẩn dật
Nghề nghiệp hay chân thật đạo đời
Khôn ngoan phải biết thức thời
Lương y từ mẫu thương người lầm than
Phường lục tặc dã man cướp đoạt
Theo luật rừng sao thoát lưới trời
Tích dần nghiệp chướng cho đời
Có vay có trả rạch ròi xưa nay
Hai ngươi chịu đắng cay phiền não
Cảnh gia đình chao đảo bấy lâu
Nắng mưa tầm tã trên đầu
Tiều phu ngư phủ đĩa dầu hư hao
Mộng Thế Triền cùng Bào Tử Phược
Cảnh khốn cùng thuận bước chân đi
Thanh khâm trút gánh nam nhi
Cưu mang nhân thế đền nghì phiếu mai
Nuôi khí huyết dùi mài tinh tấn
Lòng dục ngăn Tổ vấn thiên đầu
Kỳ Hoàng tôi chúa hỏi nhau
Thiên chân bàn luận nhiệm màu cẩm nang
Tránh ăn bậy rõ ràng thấy gốc
Bữa trà xong rượu thuốc thân tâm
Người nào đàm hỏa hư âm
Lời khuyên Nhự đạm phải tầm tra ngay
Tham nhục dục lắt lay trước gió
Mã thượng phong xin chớ coi thường
Trâu gìa tuổi hạc thê lương
Hồn xiêu phách lạc âm dương chia lìa.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
12.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 33
Lời thánh hiền khắc bia răn bảo
Mộng hão huyền cải lão trường sinh
Khuyên nhau đau ốm bệnh tình
Dưỡng thông khí huyết tâm linh nào bằng
Máu hơi đủ siêu thăng trời đất
Luật tự nhiên mới thật sống dai
Ô hay trong cõi trần ai
Bao người đoản mệnh cũng loài vi nhân
Tiều muốn hỏi khác phần thọ yểu?
Bởi vì sao nên thiếu công bằng
Hoặc là thiên quý sai chăng
Nhập Môn lưỡng lự than rằng xưa nay
Từ cổ kim sống ngay ở thật
Tránh xa hoa dâm dật bê tha
Thân tâm trong sạch thật thà
Thất tình lục dục tránh xa ưu phiền
Trọn hai chữ thiên niên tuổi hạc
Học dưỡng sinh đạm bạc thanh cao
Nội công khí lực dồi dào
Tĩnh tâm an lạc xuân đào trổ hoa
Giữ cân băng điều hòa thể trạng
Tránh ăn nhiều phủ tạng mỡ tăng
No say lửa dục càng hăng
Tổn hao sức lực bệnh càng phát ra
Trai ba mươi gật gà loạng choạng
Bệnh sa đì khệnh khạng bước chân
Xanh xao vàng võ thất thần
Gan suy thận trụy xương gân rã rời
Các ngươi hãy nghe lời ta nói
Con gái thì bảy tuổi răng thay
Tóc mây xanh rậm thấy ngay
Hương thơm phảng phất mỗi ngày dần tăng
Thiên quý chí rõ ràng kinh nguyệt
Mười bốn xuân là biết xung nhâm
Mạch thông rãn nở khí âm
Hai mươi mốt thận tới tầm thanh minh
Răng hàm đủ trong mình sung sức
Hai tám xuân khí lực đều sung
Tóc đen mượt rõ hình dung
Ba mươi lăm tuổi sượng sùng phì ra
Tới bốn hai dần dà ngấn mặt
Bốn chín thì khóa chặt xung nhâm
Mạch hư tổn hại khí âm
Đường kinh tắc nghẽn tái thâm đồi mồi
Thiên quý kiệt hỡi ôi phận gái
Ngoài năm mươi tê dại quan san
Còn đâu sinh đẻ chứa chan
Hồi xuân lửa dục nồng nàn dầu sôi
Trai tám tuổi thận bồi răng tóc
Mười sáu thì sức vóc mới sung
Biết thiên quý chí lên cùng
Tinh đầy thông mạch anh hùng là đây.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
14.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 34
Hai bảy tuổi tóc dày răng cứng
Ba mươi hai gân vững lạ kỳ
Bốn mươi thì thận mới suy
Tóc răng đã mỏi tới kỳ da thô
Ngao ngán thay ô hô bốn tám
Năm sáu thì da nhám xương ròn
Sáu tư tạng phủ mỏi mòn
Tuổi thiên quý kiệt héo hon lạnh lùng
Bởi đường đời cùng chung lối định
Trai gái thường vẫn tính xưa nay
Nhân sinh bảo dưỡng là may
Ngoài tuần thiên quý còn bầy trẻ thơ
Tham tửu sắc thờ ơ sức khỏe
Thiên quý còn bao kẻ tàn phai
Biết mình nào có mấy ai
Dưỡng sinh hai chữ dẻo dai lâu bền
Cũng lắm kẻ tu tiên mây gió
Môn cho rằng đây đó xưa nay
Có vua Hoàng Đế mê say
Thuật truyền nhân thế sau này sai ngoa
Các đạo sĩ đời sau phân nhánh
Tà thuật dùng né tránh chân nhân
Theo ta quy thuận an phần
Nhân tình thế thái tâm thân ý trời
Như Vương Bao người đời ca ngợi
Đường chính theo vạch lối báu cho
Mặc ai nghiêng ngửa duỗi co
Bằng sao Bành Tổ xây lò hóa công
Phái bàng môn gieo trồng tả đạo
Họ Kiều, Tùng cầu đảo luyện hình
Thổ hà hơi hít linh tinh
Trau mình nào phải đọc kinh Hoàng đình
Từ lân lý lòng mình chính trực
Bậc cao nhân thao thức anh minh
Bách gia chư tử luận bình
Cần chi phải đọc nhiều kinh âm phù
Cũng xuất gia đường tu lắt léo
Phật hay tiên giữ nẻo tâm thân
Thuận theo bảo dưỡng tinh thần
Nở hoa giác ngộ thế nhân bao đời
Đạo Dẫn than lòng người đen trắng
Thân bọt bèo cay đắng xót xa
Đồng tiền nén bạc sinh ra
Tai ương nghiệp chướng cảnh nhà lầm than
Câu phụ tử quân thần nho sĩ
Đạo thánh hiền nghi kỵ lẫn nhau
Tu mi nam tử vàng thau
Kỷ cương tàn lụi nhạt màu nước non
Bao kẻ sĩ héo hon lòng dạ
Chữ trung thần sắt đá đâu còn
Phận hèn giữ đạo tôi con
Hôn quân bạo chúa hao mòn sức dân.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
14.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 35
Giặc nội xâm mưu thâm kế hiểm
Bầy hắc nô đàng điếm ăn chơi
Gian thần ác bá khắp nơi
Liên minh ma quỷ giống nòi kể chi
Đạo Dẫn than tới thì mạt vận
Bạn ta từng lận đận lầm than
Bốn bề khói lửa điêu tàn
Ngoại bang xâm lấn dã man nhục hình
Còn tin ai triều đình đổ nát
Thói sai nha sát phạt chẳng từ
Cạn nguồn suối mát chân như
Phật tiên quả đắng thiên tư cửa thiền
Người thày thuốc triền miên sầu tưởng
Treo cờ sao ba tượng trong tòa
Tiều kêu đồ ấy lập lòa
Tiên thiên bày biện nhạt nhòa làm chi?
Ngư thắc mắc có gì khó hiểu
Nhập Môn rằng bảng hiệu nhà ta
Âý từ kinh dịch thảo ra
Nửa trong y học bao la thần kỳ
Môn trong quẻ Bào Hy có tám
Tính toán thành Kiền Khảm Tốn Ly
Tiếp theo Cẩn Chấn Khôn Đoài
Tiên thiên một bức đồ khai muôn loài
Coi phương hướng trần ai sinh hóa
Tám quẻ gieo nhân quả xấu lành
Âm dương đủ cả ngũ hành
Đạo y kinh dịch tính danh rõ ràng
Kiền tây bắc rồi sang đình Hợi
Tuất lẻ loi chới với đi đâu
Khảm phương chính bắc tương cầu
Tý cung nhấp nhổm nhiệm mầu biết không
Cấn đông bắc hanh thông Dần Sửu
Chấn soán ngôi đương Mão phương đông
Chân trời trải rộng mênh mông
Tốn kia Thìn Tỵ cánh đồng đông nam
Hướng chính nam nhăm nhăm đương Ngọ
Ly cung này sáng tỏ chiều lam
Khôn Mùi Thân phía tây nam
Đoài đương ngôi Dậu lại nhằm tây phương
Trong tám hướng âm dương suy xét
Máy trời xây rõ nét năm hành
Hậu thiên Ly Khảm tạo thành
Cho hay khí huyết rõ rành chủ trương
Ly hơi lửa thuộc dương khí bốc
Khảm rõ ràng là nước máu âm
Song mà Ly đứng bóng dâm
Khảm cung đầy giữa thật cầm chân dương
Biết hư thực âm dương biến hóa
Hiểu chưa thông hậu quả khó lường
Mong rằng y thuật tinh tường
Nước đầy lửa trống tìm đường cứu nguy
Cần hòa hợp phải tùy nước lửa
Thế mạnh này chất chứa trong mình
Yếu thời lửa nước bất minh
Chưa thông kinh dịch thuận tình chước y.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
15.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 36
Tổ sư dạy Hiên Kỳ trước hết
Quẻ Bào Hy phải thiệt tỏ tường
Tiều phu hỏi tượng Minh Đường
Là đồ khí hậu chủ chương lẽ gì?
Môn trả lời hai nghì trên dưới
Bức họa này vời vợi thiên tri
Giống như soạn thảo kinh thi
Người kia vật nọ tóm ghi lược đồ
Vẽ mười vòng cùng phô một nhóm
Khí hậu coi từng xóm ứng nhau
Năm ngày một hậu bồ xâu
Rõ ngay ba hậu bắt đầu tính coi
Được một khí sáng soi tỏ dạng
Hai khí thành một tháng kể ra
Đất trời vận chuyển bao la
Giáp mười hai tháng ấy là một niên
Một năm tự thiên nhiên riêng biệt
Có bốn mùa nhất thiết tạo nên
Hai mươi bốn tiết theo liền
Xây hai chục tám sao biên sách trời
Ba mươi sáu cung thời xuân đến
Đều nhịp nhàng sinh biến xoay vần
Mỗi năm khí hậu tần ngần
Mười vòng lớn nhỏ bần thần thủy chung
Bởi việc đời tận cùng bác vật
Mười vòng xoay trời đất một hồ
Lặng lòng coi bức thư đồ
Ba ngàn thế giới nhấp nhô thấy bờ
Tuyệt tác thay hoang xơ cây cỏ
Sách châm kim lại có ba hình
Mỗi khi thập tử nhất sinh
Cao minh y thuật gọi Minh Đường đồ
Hình nằm sấp để đo kinh túc
Huyệt dò tìm thành thục sau lưng
Thái dương chớ có lừng khừng
Một hình nằm ngửa coi chừng Dương minh
Còn hình ngồi đinh ninh một mé
Túc thiếu dương rành rẽ hai bên
Ba hình lập được một nền
Ba trăm sáu chục năm tên tuyệt vời
Coi kinh lạc tới nơi tới chốn
Đồ Đường minh đủ trọn độ trời
Một niên thủ túc ai ơi
Ba âm liền với ngoài thời ba dương
Mười hai kinh chia đường mấy lớp
Có sau du sáu hợp thường châm
Người nào đau đớn kinh âm
Huyệt du chọc đúng thoát mầm tai ương
Tam tiêu, mật, huyệt thường bọng đái
Dạ dày kia với lại ruột gìa
Ruột non gan thận trau tria
Kinh dương thoát hiểm bên rìa rừng hoang
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
16.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 37
Kinh sáu phủ thênh thang ta đếm
Bảy mươi hai huyệt chiếm tay chân
Kinh âm năm tạng từng phần
Sáu mươi lỗ huyệt cao nhân chia đều
Sáu đối sáu sách nêu trên hết
Thành thơ ca rõ thiệt âm dương
Mười hai huyệt đạo tỏ tường
Sáu bài khí huyết vẫn thường viết ra
Phép châm cứu người ta ca ngợi
Mười tám bài vời vợi sáng thông
Huyệt kinh phải đọc thuộc lòng
Dương kinh lục phủ xuôi dòng vinh du
Tiều thán phục thiên thu vạn đại
Ngư đồng tình phải trái phân minh
Mười hai kinh nguyệt thuận tình
Hơi dồn máu chạy nhân sinh muôn loài
Luận khí huyết sáu bài hoan lạc
Môn khen hay chẳng khác thánh ca
Mỗi câu mỗi huyệt xem ra
Bắt đầu từ phế chạy qua đại trường
Xung phủ đến thiếu dương biết trước
Mối theo đường hung ức ngón tay
Thương dương cũng đến chỗ này
Chạy lên trước mũi tên bày nghênh hương
Khấp tủa xuống dưới đường ấn bạch
Vị với tỳ tới nhánh ngón chân
Lệ đoài xin chớ tần
ngần
Ai hay vú tả rào phần đại bao
Ao tiểu trường vào ba tâm chủ
Huyệt cực tuyền tột chỗ da xương
Hữu ra ngón út đầu đường
Thiếu xung thiếu trạch tả thông trong ngoài
Phần thính cung ở tai bên tả
Dài chí âm mới hạ bài tư
Tình minh gốc mũi như từ
Giữa bàn chân giữa xem như dũng tuyền
Đến du phủ tả biên phủ huyệt
Chiều trung xung khẩn thiết thiên trì
Quan xung ngón cái đen sì
Trúc ty huyệt ấy như di chặng này
Y thuật cao can vầy sáu đảm
Đồng tử ra gò má tả cầm
Ngón chân út rõ khiếu âm
Thẳng bên vú hữu âm thầm kỳ môn
Vòng khí huyết đóng đồn răm rắp
Mười hai kinh lạc khắp ngày đêm
Trong ngoài chuyển vận êm đềm
Rồi nhanh như ngựa hòa mềm xa đi.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
17.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 38
Sách y học nhân tri bách bộ
Gía gương hình theo đó kê toa
Ngư khen như gấm thêu hoa
Nhớ lời Đạo Dẫn dạy ta rành rành
Nguồn cội ấy sáng danh trời đất
Phải dựa theo vẽ thật giống ta
Đại huynh giảng lại rõ ra
Máy trời trọn lọc trong ba hình người
Từ cổ kim bao đời truyền thụ
Mười can sinh chi hóa mười hai
Nội kinh luận ngữ chẳng sai
Âm dương tứ đại muôn loài hữu sinh
Dần ứng phổi thơ minh đường đó
Ruột già kia với mão đứng nhìn
Dạ dày lại ứng với thìn
Cho hay lá lách tỵ gìn giữ cho
Mùi ruột non tim dò đường ngọ
Bọng đái thân thận dậu màng tim
Tuất đừng mải miết đi tìm
Tam tiêu ứng hợi cánh chim hải hồ
Tý với mật sửu vô gan đó
Âm với dương thân có trẻ già
Ngũ hành tuần tự phân chía
Mười hai kinh lạc trau tria góp phần
Nhiều khoa thuốc thế nhân liệu tính
Tiều chưa rành minh định ra sao?
Dẫn từng chỉ bảo khi nào
Sơ qua mấy vị hư hao tháng ngày
Học phải hành xưa nay kinh nghiệm
Đường Nhập Môn màu nhiệm sách thày
Kỳ Nhân Sư, vốn thẳng ngay
Biết bao tinh túy hàng ngày truyền cho
Đường dẫn kinh cần lo thang thuốc
Cân từng ly mà bốc cho tường
Bàng quan kinh túc thái dương
Thuận theo kinh thủ tiểu trường đọc tên
Đường cao bản dẫn lên khương hoạt
Hoàng bá thì phải thoát chớ lầm
Đừng quên kinh ấy thiếu âm
Hợp thành túc thận thủ tâm hai phần
Trong hoàng bá tế tân tri mẫu
Khương hoạt coi thận dẫu đã chuyên
Thiếu dương kinh hỏa biểu truyền
Túc thành phủ đảm nối liền tam tiêu
Vị xuyên kung là điều ghi nhớ
Với sài hồ để trợ thanh bì
Trị tiêu xuống dắt một khi
Nhờ chàng túc quyết tới thì âm can
Hai đàng kinh gian nan môn hỏa
Thủ mệnh kia chuyển hóa thanh bì
Sài hồ rễ thoát kinh đi
Xuyên khung y lý nhâm nhi một đường.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
18.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 39
Kinh thủ đại đồ trường ăn chứa
Dương minh hương vị ứá cát căn
Thăng ma bạch chỉ dâng tràn
Thạch cao lên xuống dịch toan dẫn truyền
Thái âm kinh dĩ nhiên thủ phế
Túc tỳ kia hai thể đường y
Thăng ma bạch thược vào tỳ
Thung đi cát cánh vân vy phế đình
Vào bạch chỉ dẫn kinh các vị
Nhận trong ngoài chứng chỉ khỏi lầm
Ba dương rồi lại ba âm
Sáu kinh dón lại chứng nhầm thì sao?
Nhập Môn bệnh mới vào cảm cúm
Sáu kinh kia co cụm rõ ràng
Thái dương nóng huyết mê sàng
Cứng đơ xương sống đau ngang ống quần
Thiếu dương cũng phân vân nóng lạnh
Phải coi chừng từ nách xuống hông
Tai ù miệng đắng biết không?
Dương minh khát cổ hơi nồng miệng hôi
Mắt sưng tấy ôi thôi mũi đỏ
Táo bón ngồi nhăn nhó khó tiêu
Chẳng nằm từ sáng tới chiều
Nhấp nha nhấp nhổm liêu xiêu hãn dầm
Thấy nước vàng da ngâm ban mọc
Vào ra càng khó nhọc đôi chân
Thiếu âm họng lưỡi khô khan
Rên la khát nước góc màn nằm co
Quyết âm càng hung no gân giật
Dái thụt vào bần bật lưỡi cong
Nhăn nheo âm hộ co vòng
Thái âm đau bụng lưng còng gối ôm
Không ỉa được chồm hôm nhà xí
Rách hậu môn tắc bí vô cùng
Tái xanh thảm hại não nùng
Ban ngày mê ngủ hãi hùng Phong Đô
Để lâu ngày dồn xô đủ dạng
Đường truyền kinh, phủ tạng chẳng tinh
Mang câu “ dẫn khẩu nhập đình “
Làm sao tránh khỏi bệnh tình phát to
Thoát sao khỏi vòng vo y học
Bậc đại phu biết trước chăm lo
Học y muốn khỏi tội to
Lâm sàng triệu chứng phải dò căn nguyên
Viết lời ca thày truyền bí quyết
Kỳ Nhân Sư khẩn thiết yêu cầu
Ta xin đọc lại từ đầu
Sẵn đây giấy mực từng câu chép vào
Trong ngoài hợp làm sao chứng tỏ
Lẽ hằng nhiên thấu rõ đổi dời
Theo niên năm vận tiết trời
Ứng cùng sáu khí ở người mà ra.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
19.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 40
Có bốn mùa ngày qua tháng lại
Trong một năm quan tái giang san
Tránh sao cảm lạnh thương hàn
Hoành hành dịch cúm lan tràn đó đây
Cũng lắm kẻ còn gây dịch bệnh
Lợi ích riêng toan tính tà quyền
Mưu đồ hủy diệt thiên nhiên
Bán hồn cho quỷ đảo điên nhân loài
Khí nào hơn nguôi ngoai trăm nỗi
Lạị vẽ bùa tội lỗi đua nhau
Thương thiên hại lý khổ đau
Ngũ hành xung khắc bạc màu tang thương
Biết bao cảnh thê lương ảm đạm
Bệnh nội thương ngoại cảm khí trời
Ngoài tiêu trong bản chơi vơi
Lần vào sáu phủ mạng người mong manh
Trong năm tạng ngũ hành chi phối
Phải phòng ngừa lạc lối tinh thần
Toàn thân co rật bất an
Phải chăng bởi chứng thương hàn thì sao?
Ta cũng biết tạng nào mạch thể
Từ tâm can tỳ phế thận danh
Tử sinh xung khắc năm hành
Gỉa như tâm hỏa sao đành bỏ qua
Cũng tùy theo từng mùa khí tượng
Bệnh nảy sinh theo hướng hỏa tà
Xem ra trong cõi người ta
Phải chăng thận thủy đắm sa lăng loàn
Hai tạng ấy mà bàn tận gốc
Thổ tỳ kim phế mộc chi can
Ai hay từ đệ nhất quan
Chứng nào tật ấy thương hàn gây ra
Không hiểu biết cho là quỷ ám
Bệnh nội tâm lại cảm trúng thương
Sách ghi chữ “trúng” chữ “thương”
Cho hay tà độc khí thường nhiễu nhương
Cơn mưa gió bất thường u uất
Hơi độc bay cảnh thật thê lương
Núi đầm khe suối ruộng nương
Bản làng xơ xác chán chường heo may
Bệnh phong thấp tới nay nhân thế
Thở khò khè thân thể lừ đừ
Gật gà buồn ngủ ậm ừ
Mạch phù uể oải đau nhừ chân tay
Bệnh ôn độc nổi ngay như gấm
Thân phát vằm lảm nhảm thường xuyên
Nhức đầu nóng sốt liên miên
Mồ hôi như tắm uống liền thần sa
Ngư nghĩ bụng thật là cay đắng
Dưới vòm trời bệnh
trạng khác nhau
Sư huynh cửa đạo đã lâu
Mấy tầng nhà kín buồng sâu tận tường.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
20.4.2020 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét