Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

Chùm Thơ Tình Dài Số 284

 

(gồm những bài dài trên 24 câu)

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 2

 

Bạn đồng môn ai ngờ gặp lại

Trên dòng sông buồm lái vi vu

Lửa chài mây khói trời U

Mui che gió Tấn mấy thu dãi dầu

 

Thú phù sinh nông sâu nếm trải

Tuổi hạc cao chẳng ngại sóng vờn

Cá tôm đen khịt chập chờn

Mặc đời ngao ngán giận hờn thế gian

 

Bào Tử Phược băn khoăn thế sự

Lắng tai nghe tư lự bạn hiền

Nghẹn ngào cùng Mộng Thế Triền

Tri âm tri kỷ hàn huyên dãi dề

 

Người thức thời chẳng mê tiên phật

Đường công danh lật đật phôi pha

Thương câu thế đạo đồi ba

Biết bao kẻ sĩ sa đà trần ai

 

Tự huyễn hoặc cam lai khổ tận

Bậc hàn nho lận đận áo cơm

Trời già quen thói bờm xơm

Sôi kinh nấu sử củi rơm cháy nồi

 

Lòng nguội lạnh than ôi ngọn lửa

Bếp nhà nghèo chữ nghĩa ích chi

Khổng Khâu vật vã trí tri

Dửng rưng Lão Tử tu mi thẹn thùng

 

Thật nực cười cố cùng quân tử

Nợ thanh khâm mồi nhử cá vàng

Vinh quy bái tổ vẻ vang

Quan trường chen chúc giàu sang dật dờ

 

Gối hoàng lương giấc mơ vụt biến

Mộng nam kha đàn kiến lao xao

Vu Phần tham chén rượu đào

Thảm thương phò mã ứa trào dòng châu

 

Chả mấy chốc nương dâu bãi biển

Khóc tang điền triền triện còn bay

Phù du quyến rũ men say

Sòng đời đen đỏ đắng cay não lòng

 

Thuở Đông Chu long đong xuôi ngược

Bao anh hùng cá cược vận may

Đạo đời xung khắc đến nay

Hạ Thương đường cũ càng day dứt nền

 

Từ Văn Vũ tạo nên công nghiệp

Bảy bá vương nối tiếp lợi danh

Gầm ghè xâu xé tranh giành

Kinh Lân dẹp loạn ruồi xanh một bầy

 

Sử Mã khôn cáo cầy mọi rợ

Mặc Dương càng dùi mõ lấn sang

Tiếng chuông Phật Lão khua vang

Lửa Tần tro Hạng sắt gang nguội dần

 

Đám cửu lưu xa gần bái tổ

Ánh trăng vàng cổ độ Hán am

Chùa Lương nhả khói già lam

Bên đường tam giáo càng ham xưng thầy

 

Khe Đào Lý một bầy chạy trốn

Trúc đình Lan chộn rộn cuồng say

Thi thư mọt ruỗng ai hay

Lê thê lễ nhạc sương bay mịt mù.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

11.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 3

 

Hận đại dương thiên thu dòng nước

Chặn cội nguồn xâm lược lân bang

Bàn môn tả đạo nhố nhăng

Dân đen ngắc ngoải bẽ bàng triều cương

 

Bào Tử Phược hỏi đường gia thất

Mộng Thế Triền chân thật giãi bày

Nỗi niềm u uẩn chất đầy

Năm lần cưới vợ trật trầy mãi thôi

 

Bốn nàng trước xa xôi chín suối

Người cuối cũng tội lắm thay

Xanh xao tàu lá gió bay

Ốm đau vật vã chuỗi ngày sầu bi

 

Hậu sản đã cướp đi tính mạng

Củi bán ra chẳng đáng mấy thang

Dại khờ tin tưởng thày lang

Mua toàn thuốc rỏm bệnh càng nặng hơn

 

Bầy quạ đen chập chờn bay lượn

Bốn mả hoang rùng rợn khổ đau

Chân chim rám nắng bạc màu

Liễu bồ rặt rẹo sớm mau héo tàn

 

Ngư phủ buồn ứa tràn giọt lệ

Biết làm sao san sẻ điêu linh

Xót xa cám cảnh phận mình

Đói nghèo bệnh tật gia đình sầu tang

 

Mười lần sinh vợ càng yếu đuối

Đàn con thơ giận dỗi bỏ đi

Bụng phình cam tích da chì

Lòi trôn kiết lỵ mặt phì mụn ra

 

Tám đứa hận sa bà oan trái

Hồn lang thang quan ải mù sương

Suối vàng lặn lội thê lương

Chỉ còn hai đứa can trường lớn lên

 

Cõi dương gian hao tiền tốn của

Thương mẹ cha củi lửa sớm hôm

Nhờ trời cũng lắm cá tôm

Bát cơm manh áo trăng ôm mái nhà

 

Khách lãng du quan hà kẻ sĩ

Nhiều chuyển đò thú vị Y lâm

Tiều phu nghe chuyện mừng thầm

Học nghề thày thuốc từ tâm giúp đời

 

Ngư phủ mới tươi cười hể hả

Kỳ Nhân Sư thiên hạ lừng danh

Nho gia y thuật đạo hành

Tinh thông dược thảo thuần thành nhiều năm

 

Đủ kinh luân chẳng nằm một chỗ

Bậc đại phu đây đó xông pha

Ẩn mình chôn ngọc thiết tha

Vùi kim nương náu nhân hà cứu tinh

 

Bào Tử Phược phân minh sau trước

Chẳng kém chi Biển Thước Hoa Đà

Ngựa xe cát bụi bao la

Ngọa Long Cương, có mái nhà cỏ tranh

 

Gia Cát Lượng thi hành chánh pháp

Lưu Sứ quân thu nạp hiền tài

Hi Di ngũ quý kìa ai

Ngọc lân Sử Lỗ dao đài nguyệt sa

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

11.3.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 4

 

Mộng Thế Triền thiết tha cầu khẩn

Tìm hiền nhân quyết dấn thân vô

Nghe thơ khét tiếng cao đồ

Quản chi biển cả giang hồ đó đây

 

Tài Lý Đỗ chất đầy thuyền lưới

Luật thi đường chẳng vội xưng danh

Mặc cho thiên hạ tranh giành

Văn chương sư phụ đạo hành chân y

 

Bào Tử Phược Đan Kỳ lần tới

Đường gập ghềnh rắc rối éo le

Khỉ ho cò gáy suối khe

Rừng sâu vực thẳm sơn khê dặm trường

 

Phải nhằm hướng biên cương thảo dã

Aỉ Nhân Khu thác đá giang đầu

Lấy da bao thịt làm bầu

Lạch thông chín nẻo dãi dầu tuyết sương

 

Mười hai kinh lạc thường ngang dọc

Phủ Dương Quan thần khóc quỷ sầu

Trập trùng đồi cọ nương dâu

Xéo ngang năm tạng qua cầu Âm Đô

 

Thế sừng sững vách tô tả hữu

Hồ huyết quan thạch lựu trổ hoa

Nước non nguyên khí chan hòa

Xôn xao hồn phách nhạt nhòa máu tươi

 

Ngôi thần chủ chơi vơi sườn núi

Sửa sang mình cắm cúi bước đi

Thất tình nhục dục thầm thì

Có vườn ngũ vị rầm rì tốt tươi

 

Suối róc rách như lời du sĩ

Còn lắm nơi huyền bí hiểm nghèo

Mắt làng Lục Tặc dõi theo

Quanh co ngõ ngách giữ đèo Tam Thi

 

Ong bướm bay rầm rì hoa lá

Cánh nhạn sa đàn cá tung tăng

Xui lòng ái dục lăng nhăng

Lăng loàn cửa mộng Bì nang mơ màng

 

Hoa mẫu đơn dịu dàng uốn éo

Đón gió xuân vào động Tôn Cân

Thòm thèm chích chọe tranh phần

Bỏ chùa bà vãi tần ngần ngẩn ngơ

 

Sư hổ mang thẫn thờ đùi chó

Qủy sa tăng dụ dỗ táo thơm

Hai con trống mái bờm xơm

Gà rừng  vật lộn cỏ rơm say mèm

 

Cây thập ác nhá nhem sáng tối

Aó thụng đen bối rối đi đâu

Nhấp nhô ngọn sóng bạc đầu

Nho sinh hoang dại dãi dầu tuyết sương

 

Thấy tấm biển hoàng dương ánh sáng

Ánh trăng vàng tỏ rạng Tam Công

Ai hay lạc lối tiên bồng

Họa đồ ba bức chỉ hồng thêu nhung

 

Ngồi trong miếu lạnh lùng Sư tổ

Hồ linh đan thuốc đỏ hai hoàn

Nghẹn ngào khóe hạnh chứa chan

Bôi da trẻ nhỏ tật tàn mất tiêu

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

13.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 5

 

Rừng bách thảo phiêu diêu tự tại

Bậc chân nhân chẳng ngại non cao

Thương con lòng mẹ dạt dào

Cao minh y thuật nghẹn ngào chúng sinh

 

Vậy xin hỏi nhân huynh cho rõ

Người quen kia đã tỏ tận tường

Phược cười trong khách thập phương

Có Châu Đạo Dẫn dặm trường phôi pha

 

Triền do dự việc nhà bê bối

Đôi ba ngày sẽ tới thăm anh

Chần chừ ánh mắt tinh ranh

Chỉ e Lục Tặc gian manh chặn đường

 

Bào Tử Phược cương thường chính trực

Võ nghệ cao mưu chước thâm sâu

Quen nghề chài lưới vó câu

Sá chi mấy đứa đâu trâu mặt bò

 

Mộng Thế Triền đắn đo chi nữa

Còn ngại ngùng lần lữa làm chi

Cả hai bàn bạc tức thì

Hẹn ngày xuất phát lễ nghi sẵn sàng

 

Cũng vừa tiết xuân quang náo nức

Mộng Thế Tiền thao thức sầu miên

Buồng trong nghe vợ kêu rên

Sang nhà nhạc mẫu kề bên dặn dò

 

Đành gửi vợ bạc tiền chu đáo

Đủ vài năm cơm gạo thuốc men

Lang băm chữa chạy ho hen

Qua ngày đoạn tháng phận hèn chờ mong

 

Tay chống gậy thong dong đường bộ

Cá tôm khô bao bố ngô khoai

Rượu hồ tương gạo đè vai

Quản chi lau lách cỏ gai bùn lầy

 

Tiết thanh minh canh chầy rệu rã

Ánh trăng vàng phiến đá tả tơi

U yên cảnh cũ trêu ngươi

Trăm hoa đua nở khóc cười dở dang

 

Mưa tầm tã chói chang nắng cháy

Khách qua đường chẳng thấy có ai

Ngậm ngùi nghĩ chuyện khứ lai

Đông Hoàng xa lắc trúc mai chỉ đường

 

Cũng có lúc chán chường ngao ngán

Đá chênh vênh suối cạn cúi đầu

Bụi cây oan khuất lạy cầu

Chúng sinh ngắc ngoải dãi dầu muối sương

 

Lắm bệnh tật thê lương ảo não

Chim líu lo mách bảo dân tình

Mưa sầu gió thảm điêu linh

Băn khoăn tự hỏi lộ trình ải xưa

 

Bỗng có người cưỡi lừa đi tới

Tiếng ngâm thơ vời vợi thanh tao

Hai người dừng gót thì thào

Đợi chờ sau tính hỏi chào xem sao?

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

14.3.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 6

 

Ngày đông giá hư hao lá rụng

Phận nghèo hèn rẻ rúng lắm thay

Thân gày trước gió lắt lay

Bát cơm manh áo đắng cay nỗi niềm

 

Miền sơn cước trên thềm sáng tỏ

Vườn Lâm Y cây cỏ tốt tươi

Trèo đèo lội suối tới nơi

Viếng thăm đạo cốt nụ cười chân nhân

 

Châu Đạo Dẫn tần ngần sửng sốt

Bạn tương giao đường đột đến đây

Ngư Tiều vội vã tỏ bày

Thiết tha học thuốc tìm thày Nhân Sư

 

Y thuật cao thiên tư đức hạnh

Khắp ngân hà thái bạch chân như

Lương y lòng mẹ nhân từ

Công ơn tế độ giải trừ nguy nan

 

Am Bảo Dưỡng bình an thư thái

Đợi thày về ta lại hỏi xem

Trăng thanh gió mát buông rèm

Mười hai kinh mạch thòm thèm nông sâu

 

Cả ba người cùng nhau kết nghiã

Học nghề y thấm thía tâm tình

Âm dương ba số bội tinh

Tay chân tả hữu thân hình ra sao?

 

Thập nhị ca dạt dào kinh lạc

Kinh thái dương thông bác ruột non

Thủ dương bọng đái sắt son

Thái âm kinh túc lại còn tam tiêu

 

Phải thuộc đường bao nhiêu chi phối

Này dạ dày tim phổi thận gan

Quản chi ngày tháng gian nan

 

Lầu thông sách vở chứa chan ân tình

 

Nhiều khí huyết dương minh kinh thủ

Phải nhớ ngay tích tụ ruột già

Dạ dày kinh túc đầm đìa

Đôi khi thiếu máu phân chia  bốn đường

 

Ruột non bọng đái trương gan mật

Bốn kinh thông phải thật tỏ tường

Cốt cho tim phổi bình thường

Điều hòa thân nhiệt canh trường ngủ ngon

 

Mộng Thế Triền bệnh còn lắm chứng

Kinh lạc nhiều chịu đựng sa sao?

Họ Châu y thuật thày cao

Kê đơn bắt mạch đem vào đường kinh

 

Bốc thuốc đúng bệnh tình sẽ khỏi

Tử Phược xin giám hỏi tiên sinh

Chẳng may nhầm lẫn tứ kinh

Khí hư năm tạng tâm linh mịt mờ?

 

Tâm làm chủ thần nhơ xác nhược

Sư Tổ thường biết trước tâm linh

Chỉ xem dáng vẻ thân hình

Tạng can thuộc mộc dưỡng sinh khí trời

 

Tập khí công trong người thư thái

Loại trừ ngay lo ngại buồn phiền

Giữ cho thần thái an nhiên

Tránh xa trác táng bạc tiền bon chen.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

15.3.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 7

 

Đời lắm kẻ ươn hèn bạc nhược

Liên kết bầy ô trược tiểu nhân

Thức ăn độc hại bất cần

Xanh xao trắng dã dày gân buộc lèo

 

Hồn khí uất hắt heo gió thổi

Ứa vị toan hấp hối kêu rên

Mạch sờ lay lắt chữ huyền

Âm kinh túc ấy dẫn truyền toàn thân

 

Cùng phủ đảm nối dần tâm tạng

Thuộc hỏa kinh theo dạng mạch hồng

Mùa hè sắc đỏ lưỡi phồng

Thất thần tụ máu chất chồng mùi hôi

 

Đường kinh thủ xa xôi âm thiếu

Ngôi tiểu trường ngoại phủ lại càng

Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng

Thuận theo tứ quý tiềm tàng là vui

 

Nếu nước dãi ngọt mùi mạch hoãn

Tiếng ca nghe chắc chắn nuôi hình

Thái âm kinh túc da mình

Hợp cùng phủ vị thần linh trụ trì

 

Tâm thư thái tức thì tạng phế

Ngôi trung châu mạch thể kim ti

Mùa thu sắc trắng vân vi

Vị cay ròng phách biểu bì lông trơn

 

Khi hắt hơi nước nhờn trong mũi

Thái âm kinh bờ bụi tỏ tường

Hợp cùng ngoại phủ đại trường

Tạng kia thận nọ vẫn thường mùa đông

 

Đều thuộc thủy phải thông thuộc trước

Sắc vị đen chỉ được nuôi xương

Rên la nước miếng thất thường

Hai tai chừng đó giữ phương mạch trầm

 

Phần kinh túc thiếu âm phải rõ

Hợp bàng quang phủ đó hóa nguyên

Tiều phu năm tạng đã biên

Còn  trong sáu phủ nói liền cho ra

 

Đạo Dẫn cười người ta túi mật

Xuân mộc kinh đúng thật thiếu dương

Tượng theo nắm bắt phải tường

Phủ can muôn mối liệu đường trước sau

 

Chiều ruột nhỏ mau mau hạ hỏa

Tiểu trường hay thoái hóa kinh cầm

Bên ngoài giữ phủ an tâm

Nước trôi rửa sạch âm thầm tạo sinh

 

Phần kinh túc dương minh khẩn thiết

Ăn uống càng phải biết can ngăn

Kiêng khem chồng chất khó khăn

Ruột rà bao tử trở trăn đêm ngày

 

Đại trường nhức nhối ngay uế khí

Phải lo xa tỳ vị hơi cầm

Ních đầy cặn bã xuống hầm

Phân đùn tanh tưởi thân tâm dật dờ.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

16.3.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8

 

Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu

Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi

Biết ngay phủ ấy tả tơi

Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu

 

Do ăn uống nạp nhiều tạp chất

Để toàn thân bần bật rã rời

Hơi thừa bủa khắp ba nơi

Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào

 

Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu

Ngấm vào trong phải hiểu từng toa

Mười hai kinh lạc điều hòa

Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào?

 

Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ

Còn liệu chừng tam phủ âm dương

Làm sao y thuật hiền lương

Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư?

 

Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực

Bến ngũ hành ý thức nhân sinh

Mộc kim thủy hỏa thổ trình

Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay

 

Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ

Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra

Thủy về mộc lại thiết tha

Đất trời sinh sản bao la vô cùng

 

Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy

Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim

Kim xa mộc lại đi tìm

Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh

 

Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết

Việc dữ lành thống thiết muôn loài

Tử sinh trong cõi trần ai

Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm

 

Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ

Khéo khen thay tay thợ ngũ hành

Phải coi sách ấy cho rành

Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi

 

Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận

Phải tinh tường chủ vận là chi?

Thiên can mười chữ có ghi

Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai

 

Sinh ra được một trai một gái

Năm phương càng chẳng ngại âm dương

Giáp cùng ất mộc đông phương

Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương

 

Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ

Canh tân kim vẫn ở tây phương

Thuận theo tạo vật vô thường

Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

17.3.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9

 

Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận

Suy ngẫm ra thân phận con người

Trần gian dở khóc dở cười

Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa

 

Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận

Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh

Ba ngày Mang chủng thành hình

Ai hay Thổ vận rập rình theo sau

 

Sáu ngày tới Lập thu Kim vận

Chín ngày đầu lận đận Lập đông

Khen thay tạo vật hóa công

Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền

 

Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ

Vợ hợp chồng vàng đá trước sau

Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau

Hóa ra vận Thổ một màu sắt son

 

Ất Canh lại héo hon lòng dạ

Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm

Bính Tân xem cũng chẳng lầm

Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ

 

Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý

Bướm hoa sầu bi lụy khi mô

Bởi năm hóa tạo ô hô

Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn

 

Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh

Mộc thành rừng toan tính sau đây

Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy

Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam

 

Suy sét ra từng năm vận khách

Tính theo niên đành hạch chi ai

Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai

Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì?

 

Thổ sinh Kim vận nhi là vậy

Kim  sinh thành thủy ấy vận ba

Thủy sinh mộc nảy gần xa

Rừng cây chen chúc đó là vận tư

 

Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch

Bảy mươi hai ngày tính năm nay

Lại dư năm khắc nào hay

Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra

 

Bao năm nữa đều là như thế

Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi

Đổi thay thay tinh tú các vì

Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành

 

Giáp  bính mậu nhâm canh thái quá

Bất cập đành nhân quả dương phân

Năm đinh ất kỷ quý tân

Còn bao trắc trở  về phần âm can

 

Phải biết được đaị hàn trước tiết

Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên

Rồi sau tính đến hậu thiên

Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

17.3.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10

 

Đất có hậu thế gian trời định

Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì?

Ngư tiều đến ải Địa Chi

Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo

 

Rừng âm u hắt heo chủ khí

Cỏ đá chen vị trí đổi thay

Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay

Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa

 

Dần Mão Mộc sim mua nở rộ

Tiếng ve sầu tu hú gọi hè

Hương thu thân dậu kim khoe

Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền

 

Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh

Tứ quý càng hiển hách từng mùa

Luân phiên sáu đợt ấn bùa

Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân

 

Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa

Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba

Viêm oai hừng hực sơn hà

Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem

 

Dương minh tới lom lem khô héo

Thái dương hàn khí kéo rèm bưng

Hân hoan uống chén rượu mừng

Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn

 

Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt

Cứ từng năm giành dựt trời an

Luân phiên từ tiết đại hàn

Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu

 

Hơi bình chẳng trước sau tuần tự

Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên

Bảo rằng “binh khí chi niên”

Để cho chủ tử  chính chuyên canh phòng

 

Từ sáu cặp thong dong xung đối

Xây vòng chia chẳng vội định ngôi

Ô hay khách khí xa xôi

Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm

 

Xây một tòa thái âm quân hỏa

Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm

Thái dương hàn thủy xuống tầm

Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên

 

Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa

Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời

Quyết âm xuống đất muôn nơi

Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu

 

Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ

Ngược lại như chăng chớ tuất thìn

Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn

Đất trời u ám kìn kìn mây đen

 

Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa

Dưới trần gian kim táo hai nơi

Cầm quyền khí bốc lên trời

Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào

 

Ta cũng biết âm hao sáu khí

Nam bắc kia ngọ tý chi niên

Tuần hoàn ra thế liên miên

Đất xung bên tả lan truyền khí sơ.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

18.3.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 11

 

Khí thứ hai dật dờ bên hữu

Ngôi thiên tư thành tựu thứ ba

Trời kia bên tả tư ra

Đất thì bên hữu rõ là khí năm

 

Tư tuyền chung lăm lăm khí sáu

Hơi bốn mùa nương náu đến nay

Thung thăng khoảng sáu mươi ngày

Tám mươi bảy khắc nữa rày hữu cơ

 

Ngọn lúa đòng phất phơ thấp thoáng

Yếu quyết xưa ló dạng đầu bờ

Niềm vui thao thức bao giờ

Hai ngôi thoái lại đợi chờ mỗi niên

 

Cứ xuôi ngược đầu tiên chẳng trách

Tý thiên tư bức bách về đâu

Hai heo ba chuột bốn trâu

Năm hùm sáu thỏ trọn xâu dẫn truyền

 

Mão tư thiên xoán liền ngôi sửu

Dấy khí sơ hùm thỏ đến rồng

Rằng hai ba bốn đã thông

Năm trăn sáu ngựa trọn công tư truyền

 

Hai năm ấy lệ biên lâu nữa

Này những năm thấp thổ tư thiên

Thấy ngay hàn thủy đến phiên

Như năm tướng hỏa mộc nhiên tạo thành

 

Bởi chính hóa giao tranh đối lại

Chẳng đồng nhau trở ngại gốc trồng

Ngựa dê gà cọp heo rồng

Chuột trâu khỉ thỏ rắn muông đua giành

 

Theo gốc số bẩm sanh tạo hóa

Đối nghịch nhau thời họa thực hư

Thiếu thừa theo luật bù trừ

Chỗ tiêu nơi bản đều từ ấy ra

 

Thì hãy dở sách tra sẽ thấy

Càng thấm nhuần lời dạy thực hay

Cổ kim năm khí vận may

Máy trời sáu khi xưa nay tỏ tường

 

E khách chủ hai đường lẫn lộn

Khó toan bề bận rộn ngó coi

Đạo Dẫn tạo vật sáng soi

Khí theo khí xét rạch ròi sử biên

 

Như giáp tý chi niên giả dụ

Vận khí chia quyền đủ một năm

Giáp tìm thổ vận duyên cầm

Tý đưa quân hỏa âm thầm khí đi

 

Khách gia cũng chỉ vì trên chủ

Chủ chịu lòn khí tụ ngưng tà

Đất trời chẳng chịu dung hòa

Trái ngang hơn thiệt mới ra bất tề

 

Mùa xuân ấm chẳng về xoa dịu

Gió heo may bấu víu lạnh lùng

Mùa hè hơi nóng tận cùng

Khí âm ẩn núp hãy hùng khí dương

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

19.3.2020 Lu Hà

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét