Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 218

 


Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 54

 

“Phương thuốc trị tâm thân ưng chịu

Chỗ đau nào mắc míu tới thai?

Xưa nay y biến kỳ tài

Thuận theo thiên ý vạn loài muôn phương

 

Chương thai dựng bất thường tắc nghẽn

Cứu chữa người thai nghén tận tình

Sách ghi gọi chứng: “ ám kinh“

May không nhơ uế tháng mình mang thai

 

Có người bảo: “cấu thai” là vậy

Nghén rồi kinh nguyệt thấy tuôn ra

Máu ra thai nghén chẳng sa

Có tên “thai lậu” gọi là huyết dư

 

Có người nghén năm dư ấy chớ

Thai nằm yên dễ sợ mới sinh

Bởi vì khí huyết trong mình

Gần mười tám tháng bụng phình chửa to

 

Thật lạ lùng đáng lo ngại lắm

Chứng “quỷ thai” thê thảm buồn thay

“Trưng hà” “bĩ khối” lắt lay

Nhớt nhau hơi huyết đọa đày như thai

 

Máu đầy chứa ngày dài hư thiệt

Thật kinh hoàng “súc huyết”tang thương

Than ôi! Bệnh biến khôn lường

Giống thai quái đản dị thường xiết bao

 

Bốn mươi chín tuổi cao thiên quý

Đã dứt đường tục lụy mang thai

Vợ chàng Tịnh Phổ là ai?

Đã hơn sáu chục tuổi ngoài thai mang

 

Bốn mươi chín tuổi nàng túy lúy

Mới vu quy thiên quý thông thường

Tô Khanh gái rượu phấn hồng

Mới mười hai tuổi lấy chồng có thai

 

Coi hai chuyện biên ngoài dấu sử

Đừng đắn đo phận sự thế thôi

Biết bao kinh nghiệm trau dồi

Liệu đường biến hiện để rồi kê đơn

 

Luận y học gặp cơn tai biến

Phải xét suy biểu hiện trong ngoài

Nguyên nhân động đến nội thai

An lòng thân chủ nguôi ngoai mấy bài

 

Tiều quả quyết trước thai chẩn mạch

Thật rõ ràng dám trách chi ai

Xưa nay nhắc nhở mãi hoài

Gái thì bên hữu tả trai đã đành

 

Tả di hoạt tật sanh trai đó

Gái hữu di hoạt có thấy không

Chỉ e rắc rối chất chồng

Thai đôi bụng chửa má hồng phôi phai

 

Coi mạch chủ hai tay sáu bộ

Môn bảo rằng ba bộ mạch đi

Máy trời tạo hóa vân vi

Âm dương hai chữ thịnh suy khác hình.“

 

  Khanh còn  gọi  là Tô Vũ tên thật Tô Tử Khanh, người đất Đỗ Lăng là một bầy tôi trung của vua Hán Vũ Đế. Thời đó, nhà Hán thường bị giặc Hung Nô ở phương Bắc hay quấy nhiễu, dòm ngó. Tuy là nước lớn nhưng muốn cầu hòa, nên Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ sang Hung Nô.

 

Sang bên Hung Nô, vì làm phật ý vua Hung Nô (thiền vu), Tô Vũ bị bỏ vào hang, ba ngày không cho ăn để cho chết. Tô Vũ nhờ hớp những giọt sương đêm trên ngù cờ mà sống sót. Thấy lạ, chúa Hung Nô kinh sợ, cho Tô Vũ là thần, không dám hại nữa mà đày đến đất Bắc chăn dê, giao hạn cho tới khi nào dê đực đẻ ra dê con mới được trở về Hán.

 

Đất Bắc giá lạnh hoang vu, không có người. Tô Vũ ở nơi đi đày, ngày chăn dê, tối ngủ hang đá, thiếu thốn, cực khổ và tuyệt vọng. Gặp mùa chim nhạn thiên di về phương Nam, Tô Vũ viết một lá thư nhờ chim nhạn mang về nhà cho đỡ nỗi nhớ nhung. Hán Vũ Đế tình cờ nhặt được thư mới biết Tô Vũ đang phải chăn dê khổ cực ở phương Bắc.

 

Ở nơi đi đày, Tô Vũ chỉ còn biết làm bạn với cỏ cây, cầm thú và đã kết bạn tình với một nàng vượn người. Mặc dù cuộc sống của họ là hoang dã nhưng họ luôn âu yếm nhau và đã có với nhau một đứa con. Sau 19 năm, nhờ sự can thiệp của Hán Vũ Đế, Tô Vũ chia tay người vợ vượn người trở về Hán. Điển tích Tô Vũ chăn dê trở thành một đề tài đặc sắc trong thi ca.

 

 

Vào khoảng đầu thế k ỷ thứ 2 TCN, một ông vua Đại Nhục Chi bị Hung Nô chém đầu rồi dùng cái sọ làm bình rượu, triều đình Đại Nhục Chi uất hận. Năm 100, Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ Đại Nhục Chi nữa để hai nước liên kết đánh Hung Nô. Dọc đường Tô Vũ bị Hung Nô bắt, không giết mà cũng không cho về, đành phải tạm ở lại Hung Nô, chăn cừu sống với một phụ nữ Hung Nô trong núi, được một đứa con, sau trốn thoát, chịu không biết bao nhiêu gian nan, tới được Đại Nhục Chi, nhưng lúc này họ hết muốn trả thù Hung Nô rồi, chỉ muốn sống yên ổn, làm ruộng, trồng trọt. Tô Vũ đành trở về tay không, trên đường lại bị Hung Nô bắt một lần nữa.

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 55

 

“Gốc tạng phủ thần linh soi sáng

Thuận ngũ hành năm tháng tạo ra

Vần xoay trong cõi người ta

Vợ chồng con cái mẹ cha an lành

 

Ngôi chồng vợ tung hoành thuận nghịch

Mẹ cùng con cảm kích dựng xây

Bộ âm tạo mạch dương vầy

Chồng thừa ngôi vợ bấy chầy vào trong

 

Lại như vợ mở cung cửa lớn

Lấn ngôi chồng bộn rộn ngóng trông

Bộ dương để mạch âm thông

Thong dong tới bậc minh công là hoành

 

Thừa ngôi mẹ nghịch danh con ngỏ

Mẹ thừa con thuận ở tình nhau

Ung dung bắt mạch xoát cầu

Máy âm dương nhóm biết đầu gái trai

 

Ba bộ dương mạch ai đó thịnh

Là con trai dự tính chẳng sai

Ba âm mạch thịnh gái thai

Trai đôi tả đới  tung hoài mãi thôi

 

Hữu đới hoành gái đôi hóa dịch

Thành trai ba  mạch nghịch tả dương

Gái ba mạch thuận là thường

Hữu âm hình tướng vấn vương truyền lòng

 

Huyền, khẩn, lao, hoạt, cường yên vị

Chết rõ ràng trầm tế vân vi

Cao tay mạch tượng lỗi gì

Biết ngay thai yểu còn nghi ngại gì?

 

Bụng bà chửa thai nhi nằm đó

Mấy chứng thai xưa có khảo biên

Sách ghi tử giản tử huyền

Than ôi! Tử thũng, tử phiền, tử lâm

 

Bao chứng tử hoài nhâm tử khí

Hơi nghén gây tỳ vị đau trong

Tiều rằng chứng giản là phong

Mong manh mạng sống đau lòng nhân gian

 

Đàm nhiều chứng nguy nan tà ác

Khí hư ra xơ xác âm hao

Hai tay co quắp đau bào

Lậu thai bụng lớn máu trào túa ra

 

Thai lậu động khác xa là chứng

Thai bình thường mẹ nựng con ta

Tình thương mẫu tử thiết tha

Động là khí bách lậu là nhiệt thương

 

Lời thai luận biến thường nhiệt thấp

Nội thương bàn hô hấp thấy ai

Khử tà mới giữ được thai

Phong đàm thuốc ấy đúng loài trị an

 

Chứng huyễn hoặc mê man bất tỉnh

Phải lo toan định tính rõ ràng

Làm sao cho hết mơ màng

Nghén chưa đủ số bụng nàng đớn đau“

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 56

 

“Bảy tám tháng sau thì chuyển bụng

Nào biết đâu như chứng giả đò

Thày lang bốc thuốc thăm dò

Khù khờ phép tắc lò mò linh tinh

 

Nửa bốc thuốc thôi sinh ngần ngại

Tháng còn non sợ hại cả hai

Nửa thời hốt thuốc an thai

Còn thừa ngày tháng hoa khai lỗi kỳ

 

Tiếng sao khỏi lang y họa rước

Thuốc nào hay xin được lưu truyền

Nhập Môn quan sát trước tiên

Luận y thai nghén sách biên tỏ tường

 

Mười tháng chửa thông thường thai lệ

Cho đến ngày cửa sẽ mở ra

Tử cung co thắt rên la

Lưng đau nhức nhối mắt hoa tối trời

 

Như dưa chín cuống rời khỏi gốc

Nằm đơ ra hồng hộc cạn dòng

Trái thơm quả ngọt long đong

Gọi là chính sản cầu mong an lành

 

Bảy tám tháng mong manh yếu ớt

Chứng lộng thai xanh nhợt đuối hơi

Gọi là thí nguyệt nhặt lơi

Bụng đau xâm xỉa tả tơi mặt mày

 

Kinh nghiệm cho xưa nay khuyên bảo

Con nằm yên mẹ dạo bước chơi

Vẫn chưa đủ tháng chẳng rời

Mẹ yên tâm nhé nụ cười hân hoan

 

Trời sinh voi chứa chan ngọn cỏ

Luật tự nhiên xin chớ lo phiền

Hỏi tra ngày tháng trước tiên

Ly kinh một mạch coi liền là hay

 

Chứng lộng thai lắt lay chính sản

Thật hiểm nguy đừng dạn dĩ ngay

Thôi sinh phạm lỗi tắt ngày

Khai hoa chẳng đợi quắt quay kiếp người

 

Hại thế nhân hại đời thày nữa

Kê đơn liều chẳng chữa người ta

Hãy coi cái kén trứng gà

Đủ ngày mỏ khoét vỏ ra con này

 

Thuốc an thai dễ hay gây nạn

Đẻ đến ngày thày cản con ra

Nỗi niềm mong đợi thiết tha

Lang băm quậy phá cảnh nhà nát tan

 

Lộng thai chính sản, bàn tay nắm

Bậc lương y đâu dám kê liều

Cứu người cũng có lắm chiêu

Ly kinh mạch quyết bao điều tử sinh

 

Một hơi sáu lần ly kinh đến

Hoạt tế trầm mạch chẹn cũng đành

Nửa đêm đau dữ sắp sanh

Ngày mai sẽ thấy sáng danh Chúa trời.“

 

Ba bài thơ để diễn ng âm là chính, tả sâu vào chuyên môn y học, xin miễn bình giảng giải thích nhiều.

 

7.5.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét