Thứ Hai, 21 tháng 6, 2021

Chùm Thơ Tình Dài Số 290

 

(gồm những bài dài trên 24 câu)

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 59

 

Phép coi gái hữu trai bên tả

Trỏ lóng ba ngón ngả ba quan

Phong quan lóng gốc thế gian

Lóng nhì ải khí ba bàn mệnh quan

 

Vằn xanh ngang gió can quá mức

Bỗng đỏ vằn nóng nực ran mình

Vằn xanh đỏ loạn chứng kinh

Vằn hồng bợt nhạt ấm mình bụng đau

 

Vằn lóng gốc trị mau khỏi bệnh

Phải nhanh tay chớ chểnh mảng lâu

Vằn qua ngón giữa chuyển mầu

Hơi tà chạy đến càng rẫu rĩ than

 

Bắn lên trảo, giáp nan giải lắm

Chứng nguy này thê thảm hài nhi

Vằn đen như mực loạn bì

Lấn vào ba ải đông y hoảng rồi

 

Biết chừng ấy mà thôi chẳng rõ

Còn cách nào đâu đó bệnh tình

Môn rằng: Con trẻ mới sinh

Máu hơi còn yếu mạch hình khó coi

 

Giáp năm cũng có người mắc chứng

Thật đớn đau đi đứng hay ngồi

Xem ra bệnh đã nặng rồi

Gân xương mạch lạc lần hồi mở ra

 

Kỳ Nhân Sư nhi khoa giỏi trị

Khí sắc coi vị trí mạch kinh

Tướng xem trên huyệt Tình minh

Thấy trong tạng phủ bệnh tình chữa ngay

 

Xem ngón tay bấy nay biếng nhác

Thày rờ xem mạch Sác có không

Sác cùng chẳng sác coi ròng

Sác cao bốc nhiệt sác không khí hàn

 

Một ngón tay thong dong ba mạch

Hơi thở đều tách bạch điều hòa

Hai lần là thoát chẳng ngoa

Ba lần là thốt  nhạt nhòa mồ hôi

 

Bốn lần tổn than ôi năm đó

Gọi là hư chăng chớ vấn vương

Sáu lần không bệnh bình thường

Bảy lần bệnh nhẹ tám đương cận cài

 

Từ chín đến mười hai sẽ chết

Phép coi này nhất thiết tinh thông

Ngư bàn sách ấy thuần dương

Về phần trẻ nhỏ bệnh thường nhiệt dâm

 

Tiểu nhi ca tình thâm nòi giống

Bệnh trẻ con kinh động thống phong

Tich đờm cổ họng không thông

Cam sài giun sán mênh mông vô cùng

 

Sao kể hết chập chùng biển cả

Kiếp con người vàng đá phôi phai

Khen cho con tạo cắm cài

Âm dương kín chữ trần ai muôn hình.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

3.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 60

 

Ngư suy ngẫm âm tinh thấu đặng

Chữ âm này để tặng tiểu nhi

Chờ ngày thiên quý tới kỳ

Tinh thông sáng tỏ đền nghì âm dương

 

Sách ghi rõ thông thường bổ dưỡng

Đọc kỹ thì thuận nhượng thơ ngây

Tính âm luận ngữ chưa đầy

Trẻ con người lớn bệnh gây chẳng đồng

 

Vốn chẳng hại bên trong tình bảy

Sáu dâm kia hết thảy luận tà

Một mai ngoại cảm chẳng qua

Cam, kinh, thổ, tả, tích hòa trường đông

 

Thời hàn cảm thử phong tích nhiệt

Đậu chẩn sang cấp thiết đơn ban

Cản ngăn tạp bệnh lan tràn

Có mười lăm chứng nguy nan rập rình

 

Ta đơn cử tử sinh cụ thể

Mạch chẩn chờ xin kể ra đây

Trên mi mắt nổi vằn dây

Đỏ lừ chạy suốt lấp đầy con ngươi

 

Sưng mỏ ác phù nơi dưới ngực

Kể cả khi đau nhức phập phồng

Mũi khô đen sạm bụng gồng

Gân xanh chằng chịt lộn tròng mắt lên

 

Nhìn không chuyển thường xuyên đờ đẫn

Móng sạm đen chen lấn chân tay

Đột nhiên mất tiếng ai hay

Lưỡi thè ngoài miệng nhớt nhày chảy ra

 

Trẻ nghiến răng kêu la hay cắn

Thở phì phò ỉa rặn phân chim

Ngáp như cá, bỗng im lìm

Giun thò miệng mũi bóng chìm hồn ma

 

Chết tức tưởi mẹ cha bất lực

Thày thuốc càng ráng sức cứu người

Than ôi, mười đứa chết mười

Bệnh này khó chữa cảnh đời thê lương

 

Mười sáu chứng khác thường khinh trọng

Bệnh chứng này trông ngóng nhiều phương

Chẳng qua hư thực hai đường

Chứng hư chứng thực từng chương rạch ròi

 

Chẳng sai ngoa hẳn hoi công luận

Mười bệnh thường lấn bấn mãi hoài

Chín hư một thực gái trai

Ví như đầu tháng dằng dai vẫn còn

 

Khắp muôn nơi trăng non ló rạng

Mở lòng gương thực trạng chưa ra

Dạng tròn vành vạch sơn hà

Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư

 

Thuốc nhi khoa nhẫn từ sư tổ

Để ngày nay chứng tỏ mọi đằng

Cao thâm y thuật thung thăng

Cảm ơn liệt vị cung hằng sáng soi

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

4.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 61

 

Trẻ ấu thơ mặn mòi cá nước

Đức hiếu sinh thao thức lòng trời

Tổ sư bào chế cứu đời

Bệnh nào thuốc ấy rạch ròi xưa nay

 

Lợi thế tục nhiều thày chẳng ngại

Lang băm càng tác hại tiểu sinh

Kỳ Hoàng đạo học chứng minh

Khen thay trị bệnh thấu hình thực hư

 

Đơn thuốc hay chân như cứu độ

Danh tiếng thơm sư tổ ghi công

Học trò rõ chước biến thông

Huyền vi y thuật mênh mông tấm lòng

 

Kiếp nhân sinh long đong trời đất

Thuốc nhi đồng sài giật nóng ban

Tử kim đĩnh, khỏi luận bàn

Quánh đờm ho nặng gian nan vô cùng

 

Bệnh sởi đậu phải dùng trợ vị

Lở lưỡi môi từng tí nhẹ nhàng

Kê đơn hóa độc đúng thang

Bảo long tinh tán thung thăng đáng tiền

 

Thiên châm hoàn, giảm liền nôn mửa

Sốt hãm luôn cứu chữa tới nơi

Nên dùng lô hội kịp thời

Chứng cam nên nhớ rạch ròi trước sau

 

Thuốc đã có phải mau ứng dụng

Ngư với Tiều tìm đúng phương hay

Hai chàng gặp bạn là may

Nhập Môn ưu ái tháng ngày chỉ cho

 

Đệ tử ruột tài cao uyên bác

Kỳ Nhân Sư tọa lạc nơi nao?

Ngư Tiều cảm khái dạt dào

Mong thày trở laị nghẹn ngào lệ sa

 

Khắp thiên hạ trăm nhà ngưỡng mộ

Bạn của thày tri cố hai ông

Họ tên là Hưởng Thanh Phong

Ảnh Minh Nguyệt lão tinh thông y truyền

 

Chẳng vướng bụi thiên nhiên tạo hóa

Bậc chân nhân tỏa đóa hoa mai

Thanh tâm khí tượng anh tài

Mỗi người một vẻ gót hài thần tiên

 

Thày ta vẫn thường xuyên thăm viếng

Với bạn hiền nức tiếng gần xa

Sẵn lòng Sào, Hứa ngâm nga

Tề, Di mát mặt trăng ngà bể dâu

 

Ba mươi sáu cung bầu hạc lỷ

Hưởng Thanh Phong tri kỷ mấy ai

Kỳ Nhân Sư một thiên tài

Ảnh Minh Nguyệt cũng hương lài thoảng bay

 

Vòng hối thực men say thoát khỏi

Đời tối bưng le lói bình minh

Ngẩn ngơ nhìn lại bóng mình

Mây lồng đáy nước lung linh góc trời

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

5.5.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 62

 

Hai mươi tám sao chơi bốn biển

Chán hư danh hiện diện dáng hình

Gương thềm ngọc thỏ lung linh

Vầng trăng sáng tỏ cung nghinh tiếng đàn

 

Nhập Môn đang chứa chan thơ đọc

Bỗng khách đâu mời mọc thỉnh cầu

Chúa Liêu triệu đến sân chầu

Tôn sư rầu rĩ mái đầu tuyết sương

 

Chức thái sư Liêu vương ép buộc

Bổng lộc nhiều bốc thuốc kê đơn

Tôn sư căm giận oán hờn

Dật dờ sớm tối chập chờn bóng mây

 

Lòng bi phẫn bấy chầy thân phận

Kỳ Nhân Sư tủi hận chẳng ra

Dân tình thống khổ kêu la

Cửa nhà tan nát sơn hà giá băng

 

Thày cáo bệnh chẳng màng chức tước

Sợ triều đình ngờ vực sinh nghi

Nhập Môn chẳng rõ bệnh gì?

Vội vàng chuẩn bị ra đi thăm người

 

Ngư Tiều cũng tức thời biện lễ

Huynh đệ càng tri kỷ tương thân

Đan Kỳ theo lối đi gần

Gió nồm nam thổi đằng vân ráng chiều

 

Trời miền tây tiêu điều cảnh vật

Làn hơi sương phảng phất hồ sen

Non Kiều cây mọc cỏ chen

Hang sâu vực thẳm bao phen tuyết dày

 

Hươu vào động hạc bầy về núi

Ba người vừa cắm cúi bước vào

Thấy ngay Đạo Dẫn đón chào

Mời vào y quán nghẹn ngào trước sau

 

Thày chẳng chịu tự mù đôi mắt

Chốn thiên thai đóng chặt cửa thiền

Xông hai mắt đỏ triền miên

Sứ Liêu cũng chịu lụy phiền não thân

 

Cảnh nước mất nhà tan tang tóc

Dân lầm than kêu khóc khổ đau

Oán cừu thù hận theo nhau

Trẻ già trai gái dãi dầu nắng mưa

 

Nhập Môn nghe nhặt thưa lã chã

Giọt thương người lọ đá nát lòng

Trách thầm Minh Nguyệt Thanh Phong

Không ngăn cản được, hai ông phụ thầy

 

Không cố khuyên để vầy sao nỡ

Cảnh mù lòa món nợ y khoa

Tật tàn đôi mắt ướt nhòa

Di, Tề ẩn dật muối rau qua ngày

 

Nơi non Thú ai hay cam chịu

Chẳng chịu quỳ bám víu nhà Chu

Quản chi rừng núi âm u

Mai danh ẩn tích thiên thu u hoài.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

5.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 63

 

Đơì chiến quốc tranh tài vương bá

Danh chẳng sờn sắt đá kinh luân

Như ông Qủy Cốc ẩn thân

Học trò tuấn kiệt non gần đỉnh xa

 

Núi Thương Sơn bao la hùng vĩ

Bốn lão phu an trí tuổi già

Công danh chi nữa đá bia

Nào ai ràng buộc bên rìa tử sinh

 

Thú cày câu mặc tình lộc Hán

Nghiêm, Châu cùng lánh nạn công hầu

Tiên sinh Ngũ Liễu dãi dầu

Gặp cơn Tấn loạn mái đầu bạc phơ

 

Đào tể tướng hững hờ phú quý

Tướng sơn trung quy lụy phiền ai

Chúa Lương khuất lễ vật nài

Mới ra giúp sức trổ tài công huân

 

Tùy vô đạo dấn thân dạy học

Họ Vương kia khó nhọc Phần Hà

Luyện rèn mưu sĩ tại nhà

Trúc Lâm chén rượu nhân hà sầu ly

 

Bọn Lan Đình nhung y lả lướt

Thơ nhạc say sướt mướt với ai

Bụi Hồ vẩn đục chi hoài

Hành tàng hai chữ nguôi ngoai nỗi lòng

 

Hãy gỡ bỏ hết vòng danh lợi

Vật ngoài thân chới với bạc tiền

Sống cùng non nước thần tiên

Chính tâm an tọa sầu miên khước từ

 

Thuở Yêu Ly riêng tư khác biệt

Khổ nhục nào nhất thiết trừ hung

Lo âu tiếng nhạc mịt mùng

Như ông Sư Khoáng đường cùng thảm thay

 

Tự xông khói mù ngay đôi mắt

Trời nỡ lòng xiết chặt dây oan

Sao không dốc sức khuyên can

Để cho Sư Phụ tật tàn bấy nay?

 

Đạo Dẫn than giãi bày mọi lẽ

Nào ngờ đâu rành rẽ lời hay

Thày rằng: Trời đất xưa nay

Vần xoay khí vận đổi thay chính tà

 

Vũ trụ luận nhân hà thế tục

Xen hình hơi thúc giục trôi ra

Hiếu sinh con tạo thiết  tha

Dưới là ngũ nhạc trên là tam quang

 

Đường chính đạo thênh thang ta bước

Còn cách nào tỉnh thức lê dân

Yêu ma ác quỷ vô thần

Xâm lăng lấn chiếm giết dần chúng sinh

 

Đời ngũ đế thái bình thịnh trị

Là bởi vì vận khí thịnh lên

Nhân hòa hợp với hoàng thiên

Ba giềng năm dạy tự nhiên an lành

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

6.5.2020 Lu Hà

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 64

 

Khi vận ách trời xanh u ám

Đầy gian truân ảm đảm châu đông

Ghe keo lạc Sở mênh mông

Bảy hùng năm bá tranh công lấp dòng

 

Hết nhân nghĩa đỏ lòng xanh vỏ

Bầy cáo chồn mọi rợ vô luân

Thánh hiền nấp bóng dấu thân

Cọp trong rừng vắng khí phân rối nùi

 

Chịu cơ cầu phanh phui đâu dám

Sự đời càng thê thảm thương đau

Tôi loàn con giặc tranh nhau

Hơi tà ngăn bủa bạc màu sơn khê

 

Hơi chính đâu dãi dề năm tháng

Chẳng còn nhiều cay đắng ê chề

Than ôi! Cái giản nước tề

Ba lần quan sử nối đề “ thí vua“

 

Vua nước Tấn đối đầu trước hết

Làm đồng hồ ngòi viết biên ra

Chính cây chùy Bác Lãng Sa

Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng

 

Bay phần phật Tô lang cờ tiết

Nô đọa đày thảm thiết gian nan

Mất đầu lão tướng Nghiêm nhan

Trương Phi uất khí ngút ngàn bể khơi

 

Chẳng chịu nhục ngậm cười chín suối

Chính khí dâng dong duổi  đế y

Máu trào Kê Thiệu cứu nguy

Cảo Khanh miệng lưỡi lâm ly chúa mình

 

Thường Sơn kia cực hình chửi giặc

Miệng Trương Tuần bạo tặc thất kinh

Tuy Dương khảng khái bất bình

Mắng bầy giặc dữ  Quản Ninh kém gì

 

Thời Tam quốc tru di cửu tộc

Mất ô sa thảm khốc điêu linh

Chính làm tờ biểu xuất chinh

Ra quân bắc phạt Khổng Minh phất cờ

 

Chèo Tổ Địch sang bờ dẹp loạn

Diệt Yết Đê táng tận lăng loàn

Qua sông cái hốt họ Đoàn

Chặn đầu quan hoạn mưu gian soán Đường

 

Hơi chính khí vấn vương tỏa sáng

Ngọn lửa hồng bi tráng dấu ghi

Một trường oanh liệt phù trì

Nên câu ”thiên trụ địa duy” vững vàng

 

Dòng hơi chính lang thang tản mạn

Lạc xa đàng tao loạn sói mòn

Dửng dưng thời cuộc nước non

Chia năm sẻ bảy héo hon dường nào

 

Vòng phú quý lao xao nhầy nhụa

Cảnh triều đình nhớp nhúa gian thần

Sớm tôi, tối chúa vô luân

Mua quan bán tước bất nhân lộng quyền

 

Quỳ mọp lạy hoàng thiên thánh thượng

Mưa móc xin ban thưởng tước vương

Chúa Liêu kiêu ngạo khinh thường

Lê dân bách tính thê lương hãi hùng

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

8.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 65

 

Dân bị ép tận cùng dầu mỡ

Khô xác ve nức nở đọa đày

Mưa dầm nắng dãi lắt lay

Tan đàn sẻ nghé đắng cay nỗi niềm

 

Giặc Khiết Đan gọng kiềm xích sắt

Sưu thuế cao xiết chặt đôi vai

Bầy đàn xu nịnh lâu đài

Tai ương reo rắt trong ngoài lấn chen

 

Gió đồng nội bao phen cỏ lác

Vong quốc nô ngơ ngác đất trời

Ngựa xe đao kiếm muôn nơi

Đất đai giành giật tả tơi xác người

 

Khí hôn quân chơi vơi quang nhạc

Sấm mùa đông hạ lạc tuyết bay

Năm giềng ba mối heo may

Sống thừa Y Phó loay hoay cuốc bờ

 

Ta là kẻ bơ vơ xứ sở

Phải cúi đầu tôi tớ người ta

Còn đâu lãnh thổ sơn hà

Vợ con thất lạc cửa nhà nát tan

 

Chịu cơ cầu bần hàn sớm tối

Cứu dân nghèo lặn lội đó đây

Mặn mòi như bát nước đầy

Nỗi lòng ai oán canh chầy thở than

 

Phận lương y chứa chan tình nghĩa

Dân tộc mình thấm thía tử sinh

Trí quân hai chữ điêu linh

Trạch dân đau đớn thân hình dở dang

 

Suốt năm canh mơ màng thổn thức

Giọt lệ rơi nao nức sóng dồi

Tự  do đôi cánh bồi hồi

Lồng son cũi sắt phận tôi chúa người

 

Thà đui mù thảnh thơi cất bước

Dù kẻ thù bạo ngược nhiễu nhương

Còn đâu trật tự kỷ cương

Bàng môn tả đạo bất lương hoành hành

 

Chẳng thấy cảnh dân lành tang tóc

Giặc xâm lăng cướp bóc thẳng tay

Thái y nô bộc hàng ngày

Tham chi chức ấy đọa đày não thân

 

Quyết giữ trọn tinh thần thể xác

Sống làm chi nhận giặc làm cha

Bán hồn cho quỷ ác ma

Mù lòa trọn nghĩa ông cha đạo nhà

 

Danh tiếng giữ thiên hà sông núi

Chẳng hổ lòng luồn cúi ngoại xâm

Cha con cốt nhục tình thâm

Còn hơn sáng mắt nhẫn tâm lạc loài

 

Sáng đôi mắt tham tài đắm sắc

Thói a dua ngơ ngác hàng thần

Quan nha cầu cạnh hại dân

Vào ra luồn cúi Nữ Chân cáo chồn

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

9.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 66

 

Lũ ươn hèn luồn trôn cẩu tặc

Sống làm chi reo rắc thị phi

Bon chen nhân nghĩa bỏ đi

Thảo ngay chẳng biết tôn ti khinh thường

 

Trái thiên luân bất lương vô đạo

Bầy hắc nô điên đảo thế nhân

Ta đây giữ trọn tinh thần

Thà cùng tạo hóa phong trần hư vô

 

Gọi Đạo Dẫn dặn dò sau trước

Nối nghiệp thày cốt được lòng dân

Anh em non nước xa gần

Lương y từ mẫu cứu nhân độ người

 

Phận ta già thảnh thơi ngày tháng

Chẳng bận lòng cay đắng xót xa

Lánh xa thế tục quan hà

Lần hồi sớm tối bóng tà tịch dương

 

Ngư, Tiều hỏi Thanh Phong Minh Nguyệt

Rằng hai ông chẳng biết làm sao

Khoanh tay giọt lệ ứa trào

Ý thày đã quyết nghẹn ngào triết nhân

 

Thày chẳng những bảo thân giữ đạo

Lại khen người chu đáo vẹn toàn

Y lời thánh đức hiền nhân

Nước an kẻ trí, loạn thần giả ngu

 

Xưa cũng lắm đui mù câm điếc

Gỉa ốm đau chẳng tiếc thân mình

Lánh xa bổng lộc triều đình

Hôn quân vô đạo dân tình lầm than

 

Nay phải buổi gian nan xã tắc

Hoa mão di lầm lạc phai mầu

Nắng mưa cây cỏ dãi dầu

Xuân Thu giữ phép mái đầu bạc phơ

 

Sống chẳng để nhuốc nhơ tiên tổ

Chớ coi thường ngồi đó đui rồi

Hôn quân đạo tặc mấy hồi

Trời con hơi chính gửi đôi mắt thầy

 

Đợi thúc quý tan mây quang đãng

Sông sẽ trong biển lặng bao la

Mắt thày tức khắc sáng ra

Thanh Phong Minh Nguyệt thiết tha tặng người

 

Thuở tinh chiên cảnh đời tao loạn

Truyện trăm nhà đại nạn tha phương

Mấy ai trọn dấu thư hương

Tròng đôi mắt thịt tấm gương đạo nhà

 

Tần đế nhường danh gia họ Lỗ

Hán vương đâu biết rõ thầy Trương

Thôi đành ẩn dật tìm đường

Kiền khôn một túi bốn phương cậy nhờ

 

Thấy hai lão làm thơ đường luật

Tỏ lòng thành chân thật xiết bao

Nhân Sư đáng bậc nho hào

Ngư Tiều ngưỡng mộ dạt dào mưa sa

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

10.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 67

 

Rung hạt lệ xót xa cây cỏ

Trời đất sầu kim cổ khóc than

Kính thày Sư Miện đằng vân

Chiếu, thềm chớp giật thánh nhân cảm lòng

 

Sách Bân phong Chu công chỉ bảo

Dạy kẻ mù theo đạo Thành vương

Xôn xao đệ tử bốn phương

Trăm vua công dụng vào đường Nhạc sư

 

Bởi “đạo tâm” chân như hai chữ

Thầy đui mù lặng giữ lỗi chi

Thánh hiền nể trọng kiêng vì

Mặc bầy ngu xuẩn khinh khi chê cười

 

Tiều muốn đến tận nơi thăm hỏi

Việc trăm năm làn khói âm hao

Việc đời oan ức mãi sao?

Nuôi mầm hy vọng nghẹn ngào cơ duyên

 

Chuyện nước nhà căn nguyên nguồn gốc

Nỗi niềm đau tang tóc triền miên

Chẳng hay chính sự U, Yên

Hai ông thấu hiểu thần tiên ý trời

 

Bất khả lậu hỏi người đâu dễ

Máy thiên cơ chẳng để lộ ra

Hai thày đã chỉ dạy ta

Một bài thơ sấm thiết tha năm vần:

 

“Năm quý đua cờ pháo ngựa qua

Hai vua một gánh gửi vai bà

Trời nam có thẻ cây sơn cắm

Đất bắc còn vàng cốt đính pha

Con thú một sừng binh mới gặp

Cái người một mắt đá chưa ra

Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng

Bốn biển âu ca hợp một nhà”

 

Đạo Dẫn đọc sâu xa ý nghĩa

Giải từng câu thấm thía lẽ trời

Thịnh suy phần cũng do người

Đến đâu biết vậy sự đời hỏi chi?

 

Ngư vái tạ thầm thì tai bạn

Hai chúng ta nông cạn nghĩ suy

Đợi thầy trở lại Đan Kỳ

Thiên thai chốn ấy vân vy khó tìm

 

Cũng biết vậy cánh chim sơn cước

Nước mênh mông thần dược lâm y

Thác cao suối chảy ầm ỳ

Thâm sâu cùng cốc tà huy cuối trời

 

Đạo Dẫn mới mỉm cười kín đáo

Thầy trao tay chỉ bảo hai thiên

Một pho Tiêu bản luận biên

Hai là Tạp trị phú truyền cho ta

 

Thày còn viết lời ca để lại

Cả hai ngươi lo ngại làm chi

Gắng công đạo hạnh tu trì

Tinh thông y thuật việc gì chẳng nên.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

11.5.2020 Lu Hà

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 68

 

Thuốc đặc trị dĩ nhiên ngọn gốc

Thân bệnh bàn âm thuộc ngọn dương

Gốc âm năm tạng lẽ thường

Còn dương sáu phủ khí đương mịt mờ

 

Gốc mắc trước xác xơ phần ngọn

Trị ngọn thì tà loạn bệnh tăng

Thuốc hay ngấm gốc sẵn sàng

Sợ chi biến chứng bệnh càng đẩy lui

 

Nghề thày thuốc cũng vui lắm chứ

Mở vòng tay chan chứa nhân sinh

Rộng đường thông hiểu nội kinh

Chẳng nên chấp nhất u minh hiếu kỳ

 

Đừng hấp tấp cầu y bất đạt

Thuốc năm mùi chứa chất âm dương

Rõ ràng lỗi thứ lập phương

Ví như viên tướng chiến trường dụng binh

 

Không kỷ luật trao mình cho giặc

Từ ngày xưa lầm lạc lỗi chi

Còn đâu nam tử tu mi

Y Lâm một một lũ „bất khi“ cũng đành

 

Học rồi phải có hành mới được

Lệnh tôn nghiêm sau trước sắt đanh

Khí thời chẳng trọn mong manh

Lừng khừng nhút nhát thanh danh sói mòn

 

Thánh y dạy vuông tròn là chỗ

Biết bao điều chăng chớ có không?

Xem ra đọc sách buông tuồng

Chữ y chữ ý chẳng đồng thuận nhau

 

Luôn bình trắc trước sau lẫn lộn

Ý tưởng y hỗn độn chấp phương

Gốc tìm lối ấy dọn đường

Giảm, gia, khử, thủ kinh tường trở ra

 

Hợp, xuyên, trích tùy ta vận dụng

Đạo Dẫn khuyên trị đúng bệnh tình

Ơn dày trông cậy chúng sinh

Đan Khê cùng đến đệ trình Sư tôn

 

Lễ từ quy Nhập Môn nơi đó

Lạy thầy ta hai họ Mộng, Đào

Tiều phu ngày tháng hư hao

Vợ mong nhà cửa nôn nao cõi lòng

 

Bởi nghiệp y chưa thông mọi lẽ

Phải trở về rành rẽ mới xong

Ngày dài tháng rộng thong dong

Tới sau thong thả phục tòng sư huynh

 

Đường Nhập Môn hậu sinh khả úy

Nhớ ơn thầy tận tụy trung thành

Trước sau mong được an lành

Theo nhau cũ mới thanh danh sáng ngời

 

Không có thầy ta thời học bạn

Tài đức cao rào cản bước đâu

Sách y lắm chỗ thâm sâu

Tinh thông kỹ nghệ dãi dầu công phu.

 

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

12.5.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét