Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2024

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 223

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 65

 

“Dân bị ép tận cùng dầu mỡ

Khô xác ve nức nở đọa đày

Mưa dầm nắng dãi lắt lay

Tan đàn sẻ nghé đắng cay nỗi niềm

 

Giặc Khiết Đan gọng kiềm xích sắt

Sưu thuế cao xiết chặt đôi vai

Bầy đàn xu nịnh lâu đài

Tai ương reo rắt trong ngoài lấn chen

 

Gió đồng nội bao phen cỏ lác

Vong quốc nô ngơ ngác đất trời

Ngựa xe đao kiếm muôn nơi

Đất đai giành giật tả tơi xác người

 

Khí hôn quân chơi vơi quang nhạc

Sấm mùa đông hạ lạc tuyết bay

Năm giềng ba mối heo may

Sống thừa Y Phó loay hoay cuốc bờ

 

Ta là kẻ bơ vơ xứ sở

Phải cúi đầu tôi tớ người ta

Còn đâu lãnh thổ sơn hà

Vợ con thất lạc cửa nhà nát tan

 

Chịu cơ cầu bần hàn sớm tối

Cứu dân nghèo lặn lội đó đây

Mặn mòi như bát nước đầy

Nỗi lòng ai oán canh chầy thở than

 

Phận lương y chứa chan tình nghĩa

Dân tộc mình thấm thía tử sinh

Trí quân hai chữ điêu linh

Trạch dân đau đớn thân hình dở dang

 

Suốt năm canh mơ màng thổn thức

Giọt lệ rơi nao nức sóng dồi

Tự  do đôi cánh bồi hồi

Lồng son cũi sắt phận tôi chúa người

 

Thà đui mù thảnh thơi cất bước

Dù kẻ thù bạo ngược nhiễu nhương

Còn đâu trật tự kỷ cương

Bàng môn tả đạo bất lương hoành hành

 

Chẳng thấy cảnh dân lành tang tóc

Giặc xâm lăng cướp bóc thẳng tay

Thái y nô bộc hàng ngày

Tham chi chức ấy đọa đày não thân

 

Quyết giữ trọn tinh thần thể xác

Sống làm chi nhận giặc làm cha

Bán hồn cho quỷ ác ma

Mù lòa trọn nghĩa ông cha đạo nhà

 

Danh tiếng giữ thiên hà sông núi

Chẳng hổ lòng luồn cúi ngoại xâm

Cha con cốt nhục tình thâm

Còn hơn sáng mắt nhẫn tâm lạc loài

 

Sáng đôi mắt tham tài đắm sắc

Thói a dua ngơ ngác hàng thần

Quan nha cầu cạnh hại dân

Vào ra luồn cúi Nữ Chân cáo chồn

 

Y Phó còn gọi là Y Doãn một tướng nhà Thương trong lịch sử China (Tàu). Ông có công giúp Thành Thang tiêu diệt nhà Hạ, thành lập nhà Thương và phò trợ với vai trò nhiếp chính của nhà Thương ổn định trong thời gian đầu.

 

Trong lịch sử Y Doãn cùng với Hoắc Quang thời nhà Hán được xưng tụng là hai đại thần nhiếp chính phế lập vua nhưng được ca ngợi, gọi là Y Hoắc.

 

Sử sách chép chưa hoàn toàn thống nhất về lai lịch của Y Doãn. Sử ký Tư Mã Thiên nêu ra những thuyết khác nhau về việc Y Doãn đến với Thành Thang. Có thuyết cho rằng thời đó có một bộ lạc là Hữu Sằn gả con gái cho Thang, đi theo hầu có một người hầu là Y Doãn. Thấy Y Doãn có tài, Thương Thang liền cho làm hữu tướng. Tuy nhiên, Sử ký cũng dẫn thuyết khác cho rằng, Y Doãn là ẩn sĩ, Thành Thang nghe tiếng sai người đến mời 5 lần, Y Doãn mới nhận lời ra giúp. Thuyết này có nhiều điểm tương đồng với lai lịch Y Doãn được ghi chép trong truyện Phong thần diễn nghĩa. Tại hồi thứ nhất Trụ Vương tế miễu bà Nữ Oa, sách chép rằng: "Thành Thang là người nhân đức và trung hậu, nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí, thất thời, ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã, liền đến rước về, dâng cho vua Kiệt, nhà Hạ dùng. Ấy vì lòng trung, Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình. Ai ngờ vua Kiệt bất trí, không biết dùng người tài, nghe lời dua mị, không trọng dụng Y Doãn, Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang."

 

Còn có sách khác chép rằng, Y Doãn đã bỏ Thương sang làm quan cho Hạ Kiệt, nhưng sau đó thấy Kiệt hoang dâm tàn bạo, khinh rẻ chư hầu nên Y Doãn trở lại với Thành Thang. Thành Thang vẫn một lòng kính trọng và trọng dụng Y Doãn. Có ý kiến rất khác biệt, căn cứ vào Trúc thư kỉ niên, một cuốn biên niên sử cổ của nước Ngụy thời Chiến Quốc được phát hiện năm 281 đời Tây Tấn: Y Doãn thực chất được Thành Thang cử sang làm gián điệp bên nhà Hạ, lợi dụng sự bất mãn của nàng Muội Hỷ khi nàng không còn được Hạ Kiệt sủng ái để lấy tin tức về tình hình Hạ Kiệt. Sau khi nắm được nội tình nhà Hạ, Y Doãn trở về với Thành Thang.

 

Ngoài ra, Thành Thang còn thu dụng một người ở bộ lạc khác đến là Trọng Hủy, cho làm tả tướng. Y Doãn và Trọng Hủy được giao trọng trách xử lý công việc trong bộ lạc, đó là việc trái với thông lệ nhiều đời chỉ bó hẹp quyền hành trong tay những người nội tộc của nước Thương.

 

Y Doãn bày kế cho Thương Thang tranh thủ liên minh với các bộ tộc miền hạ lưu sông Hoàng Hà để có vây cánh chống nhà Hạ; sau đó thực hiện việc thanh trừ các bộ tộc thân với nhà Hạ như Cát, Côn Ngô, Bính Chướng Vi. Trong khi đó Hạ Kiệt vẫn say mê tửu sắc, không quan tâm tới chính sự.

 

Theo kế sách của Y Doãn, Thương Thang bắt đầu khiêu chiến với nhà Hạ, bỏ không nộp cống cho Hạ Kiệt. Hạ Kiệt nổi giận điều động binh mã 9 bộ tộc phía đông trước sau đánh vào bộ lạc Thương. Thành Thang bèn sai người đến nộp cống. Thấy Thang thuần phục, Kiệt cho lui quân.

 

Sang năm sau, Thang lại bỏ cống nạp. Hạ Kiệt lại tổ chức hội các bộ lạc phụ thuộc ở Hữu Nhung đánh Thương, nhưng lần này các bộ lạc không nghe theo. Bộ lạc Mân lên tiếng phản đối, Hạ Kiệt bèn mang quân đánh Mân trước. Khi Kiệt bị sa lầy vào cuộc chiến với tộc Mân, Thang ra quân diệt Hạ. Thương Thang đánh thắng Hạ Kiệt trong trận quyết định ở Minh Điều. Hạ Kiệt thua trận, bị mất ngôi và bị đày ra Nam Sào.

 

Sau khi nghe Y Doãn báo cáo tình hình các chư hầu đã quy phục, Thương Thang trở về đất Thái Quyển, chính thức lên ngôi vua, lập ra nhà Thương.

 

Còn theo sách Phong thần diễn nghĩa, vua Kiệt càng ngày càng bạo tàn, vô đạo. Gián quan Long Phùng khuyên can thì bị vua giết hại, Thành Thang sai người khuyên can vua thì vua bắt giam ông tại Hạ Đài suốt một thời gian mới thả về. Về sau, nhờ tài đức của mình, thiên hạ đều khen tụng Thành Thang, hơn bốn mươi nước đều theo về trướng. Ông Thành Thang được Y Doãn phò trợ, đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào, sau đó lên ngôi Thiên tử, lập kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi, mở đầu nhà Thương.

 

Thành Thang làm vua không lâu, thì qua đời. Vì Thái tử Thái Đinh mất sớm trước Thành Thang nên con thứ của Thang là Ngoại Bính được Y Doãn lập làm vua. Nhưng Ngoại Bính cũng qua đời, Y Doãn lại lập em Ngoại Bính là Trọng Nhâm lên ngôi. Chỉ được 4 năm, Trọng Nhâm lại mất, khi đó con thái tử Thái Đinh là Thái Giáp đã lớn nên Y Doãn lập Thái Giáp lên ngôi.

 

Y Doãn là nguyên lão 4 triều vua, làm phụ chính, dạy dỗ vị vua trẻ rất cẩn thận. Ông nói với Thái Giáp:

-"Bậc đế vương phải yêu dân, càng phải chăm chỉ học tập tinh thần trị nước của tổ phụ Thang".

 

Ông còn lấy bài học của Hạ Kiệt mất nước để khuyên răn Thái Giáp. Tuy nhiên, Thái Giáp từ nhỏ sống trong cảnh quyền quý, chỉ hưởng lạc mà không làm việc. Thái Giáp không nghe những lời dạy của Y Doãn, vẫn chơi bời phóng túng. Thấy Thái Giáp như vậy, Y Doãn quyết định dùng biện pháp mạnh: ông đày vua đến Đổng Cung gần lăng miếu của Thành Thang và tự mình nắm quyền chính. Ông còn sai người đến giám sát Thái Giáp để vua suy nghĩ và tỉnh ngộ.

 

Sau 3 năm, Thái Giáp hiểu ra sai lầm của mình, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm. Khi thấy Thái Giáp biết tu tỉnh, Y Doãn đích thân đến đón rước vua về kinh đô và trao lại quyền hành cho Thái Giáp. Thái Giáp trở thành một vị vua giỏi của nhà Thương. Tương truyền Y Doãn sống hơn 100 tuổi mới mất. Công lao khai quốc và dìu dắt vua nhỏ, giúp cho một triều đình mới thành lập được ổn định, tạo cơ sở tồn tại lâu dài của ông được đời sau nhắc đến rất nhiều. Y Doãn cùng Chu Công Đán nhà Chu trở thành những tấm gương mẫu mực về trung thần phò ấu chúa trong lịch sử China.

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 66

 

“Lũ ươn hèn luồn trôn cẩu tặc

Sống làm chi reo rắc thị phi

Bon chen nhân nghĩa bỏ đi

Thảo ngay chẳng biết tôn ti khinh thường

 

Trái thiên luân bất lương vô đạo

Bầy hắc nô điên đảo thế nhân

Ta đây giữ trọn tinh thần

Thà cùng tạo hóa phong trần hư vô

 

Gọi Đạo Dẫn dặn dò sau trước

Nối nghiệp thày cốt được lòng dân

Anh em non nước xa gần

Lương y từ mẫu cứu nhân độ người

 

Phận ta già thảnh thơi ngày tháng

Chẳng bận lòng cay đắng xót xa

Lánh xa thế tục quan hà

Lần hồi sớm tối bóng tà tịch dương

 

Ngư, Tiều hỏi Thanh Phong Minh Nguyệt

Rằng hai ông chẳng biết làm sao

Khoanh tay giọt lệ ứa trào

Ý thày đã quyết nghẹn ngào triết nhân

 

Thày chẳng những bảo thân giữ đạo

Lại khen người chu đáo vẹn toàn

Y lời thánh đức hiền nhân

Nước an kẻ trí, loạn thần giả ngu

 

Xưa cũng lắm đui mù câm điếc

Gỉa ốm đau chẳng tiếc thân mình

Lánh xa bổng lộc triều đình

Hôn quân vô đạo dân tình lầm than

 

Nay phải buổi gian nan xã tắc

Hoa mão di lầm lạc phai mầu

Nắng mưa cây cỏ dãi dầu

Xuân Thu giữ phép mái đầu bạc phơ

 

Sống chẳng để nhuốc nhơ tiên tổ

Chớ coi thường ngồi đó đui rồi

Hôn quân đạo tặc mấy hồi

Trời con hơi chính gửi đôi mắt thầy

 

Đợi thúc quý tan mây quang đãng

Sông sẽ trong biển lặng bao la

Mắt thày tức khắc sáng ra

Thanh Phong Minh Nguyệt thiết tha tặng người

 

Thuở tinh chiên cảnh đời tao loạn

Truyện trăm nhà đại nạn tha phương

Mấy ai trọn dấu thư hương

Tròng đôi mắt thịt tấm gương đạo nhà

 

Tần đế nhường danh gia họ Lỗ

Hán vương đâu biết rõ thầy Trương

Thôi đành ẩn dật tìm đường

Kiền khôn một túi bốn phương cậy nhờ

 

Thấy hai lão làm thơ đường luật

Tỏ lòng thành chân thật xiết bao

Nhân Sư đáng bậc nho hào

Ngư Tiều ngưỡng mộ dạt dào mưa sa

 

Danh gia họ Lỗ hay họ Lã tức Lã Bất Vi là một thương nhân người nước Vệ, sau trở thành Tướng quốc của nước Tần thời Chiến Quốc. Ông nổi tiếng trong lịch sử về buôn quan bán tước, xoay trở từ người buôn bán bình thường trở thành một chính trị gia có ảnh hưởng.

 

Xuất thân từ thương gia, ông được chọn giữ chức Tướng quốc trong 13 năm cho nước Tần, trở thành một chính trị gia trứ danh đương thời. Với tư tưởng Kiêm Nho Mặc, hợp Danh Pháp, ông hợp lực biên soạn nên Lã Thị Xuân Thu, chủ trương chính trị một cách rất có bài bản. Những thành quả này khiến ông trở thành một biểu tượng của phái Tạp gia - một trong Cửu Lưu thập gia thời Tiên Tần. Khi giữ chức, ông chủ trương đánh chiếm Đông Chu, Triệu cùng Vệ, mở Tam Xuyên, Thái Nguyên và Đông Quận, đối với cơ nghiệp nhà Tần có thành quả lớn lao. Sau cùng, vì sự vụ Lao Ái mà Lã Bất Vi bị liên lụy, cuối cùng bị chính Doanh Chính ép buộc uống thuốc độc tự sát.

 

Có thuyết nói rằng ông là cha của Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng, vị Hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa, song thuyết này vẩn chưa được kiểm chứng và còn nhiêu điểm mâu thuẫn. Các giáo sư John Knoblock và Jeffrey Riegel, trong bản dịch Lã Thị Xuân Thu của họ, gọi câu chuyện này "rõ ràng là sai, nhằm mục đích phỉ báng Bất Vi và xúc phạm Hoàng đế đầu tiên

 

  Lã Bất Vi là người nước Vệ, nay thuộc khu vực phía Nam của Bộc Dương, tỉnh Hà Nam. Sách Chiến Quốc sách lại nói ông sinh ra ở Dương Địch ở nước Hàn. Xuất thân tầm thường, Lã Bất Vi là một thương nhân, nhờ buôn bán thành công nên rất giàu có.

 

Năm thứ 40 trước công nguyên đời Tần Chiêu Tương vương , Điệu Thái tử mất. Năm thứ 42 , ngôi Thái tử còn khuyết, nên Tần vương cho con thứ là An Quốc quân Doanh Trụ làm Thái tử. An Quốc quân có hơn 20 người con và nhiều vợ, trong đó người vợ được yêu nhất được lập làm chính phu nhân, gọi là Hoa Dương phu nhân. Phu nhân không có con, mà một người con của An Quốc quân là Dị Nhân sinh ra bởi thị thiếp Hạ Cơ không được yêu quý, nên Dị Nhân phải làm con tin của Tần ở nước Triệu. Tần mấy lần đánh Triệu, nên Triệu bạc đãi Dị Nhân.

 

Lã Bất Vi ở Hàm Đan nước Triệu, trông thấy Dị Nhân bèn nảy ra ý muốn giúp Dị Nhân làm người kế nghiệp nước Tần để bản thân mình tiến thân, bèn chủ động kết giao với Dị Nhân. Lã Bất Vi đưa cho Dị Nhân năm trăm cân vàng tiêu dùng và đãi tân khách. Rồi lấy tiền mua của báu vật lạ, đem sang Tần, xin ra mắt người chị Hoa Dương phu nhân để dâng những vật ấy cho Hoa Dương phu nhân. Nhân đó, Lã Bất Vi kể Dị Nhân tài giỏi, khôn ngoan, giao với người các nước, bạn hữu khắp thiên hạ. Hoa Dương phu nhân không có con, Bất Vi khuyên nhận Dị Nhân làm con nuôi. Hoa Dương phu nhân nghe theo, vào xin An Quốc quân lập Dị Nhân làm thừa tự. Danh tiếng Dị Nhân từ đó càng nổi với chư hầu.

 

Bấy giờ, Lã Bất Vi có một người thiếp là Triệu Cơ, đàn hay múa giỏi và có nhan sắc. Một hôm, Bất Vi mời Dị Nhân đến nhà, sai Triệu Cơ ra rót rượu. Dị Nhân đem lòng say mê, Lã Bất Vi liền dâng Triệu Cơ cho Dị Nhân. Năm Chiêu Tương vương thứ 48 trước công nguyên vào tháng giêng, Triệu Cơ sinh hạ một con trai, chính là Doanh Chính.

 

Năm thứ 50 đời Chiêu Tương vương, nước Tần sai Vương Ý vây Hàm Đan, triều đình nước Triệu muốn giết Dị Nhân. Biết được tin, Dị Nhân cùng Lã Bất Vi mưu đưa sáu trăm cân vàng cho kẻ coi giữ nên trốn thoát Triệu. Triệu muốn giết vợ con Dị Nhân, nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, lẩn trốn được vì thế mẹ con đều sống.

Tần Chiêu Tương vương mất. Sau một thời gian để tang cha, sang năm sau An Quốc quân lên làm Tần vương, tức là Tần Hiếu Văn vương, lập Hoa Dương phu nhân làm Vương hậu, Dị Nhân (lúc này đã đổi tên thành Tử Sở) do đó trở thành Thái tử.

 

Sau 6 năm cách biệt, Triệu Cơ cùng con là Doanh Chính được đón về nước Tần. Nhưng Hiếu Văn vương lên ngôi được 3 ngày đã mất. Thái tử Tử Sở lên thay, tức là Tần Trang Tương vương, tôn mẹ nuôi là Hoa Dương hậu làm Hoa Dương Thái hậu, mẹ đẻ Hạ Cơ là Hạ Thái hậu. Có ý kiến cho rằng chính Bất Vi chủ mưu hại vua Tần để Tử Sở sớm lên thay ngôi.

 

Tần Trang Tương vương liền phong cho Bất Vi làm Tướng quốc, tước hiệu Văn Tín hầu , được ăn thuế 100.000 hộ thực ở quận Hà Nam, Lạc Dương. Trang Tương vương làm vua được 3 năm thì mất, Thái tử là Chính lên ngôi, gọi là Tần vương Chính, tức Tần Thủy Hoàng sau này, tôn Lã Bất Vi làm Trọng phụ.

 

Khi lên nắm phụ chính, Lã Bất Vi chủ trương mở rộng cương thổ của nước Tần, gây chiến và tranh giành ảnh hưởng đối với Đông Chu, Triệu cùng nước Vệ, chiếm đại lượng thành trì, làm cơ sở cho nước Tần về sau thống nhất thiên hạ. Bấy giờ ở Ngụy có Tín Lăng quân Nguỵ Vô Kỵ, ở Sở có Xuân Thân quân Hoàng Yết, ở Triệu có Bình Nguyên quân Triệu Thắng, ở Tề có Mạnh Thường quân Điền Văn, tất cả đều đua nhau quý kẻ sĩ, chiều tân khách. Lã Bất Vi thấy Tần mạnh mà mình không bằng họ nên xấu hổ cũng đón mời các kẻ sĩ đãi rất hậu, khách ăn trong nhà có đến ba nghìn. Khi ấy chư hầu có nhiều biện sĩ, như bọn Tuân Khanh làm sách truyền bá ra thiên hạ. Bất Vi bèn sai các khách soạn ra những điều mình biết, họp lại làm tám Lãm, sáu Luận, mười Kỷ gồm hơn hai mươi vạn chữ, cho là đủ hết những việc trời đất, muôn vật xưa nay. Ông đặt tên sách là Lã Thị Xuân Thu bày ở cửa chợ Hàm Dương, đặt nghìn lạng vàng lên trên, mời các du sĩ của chư hầu ai có thể thêm bớt một chữ thì xin biếu một nghìn lạng vàng.

 

Trong cung, Lã Bất Vi hay cùng mẹ của Tần vương là Triệu Cơ tư thông. Khi Tần vương Chính đã lớn mà Thái hậu cứ dâm loạn mãi, thì Lã Bất Vi sợ lộ mà mang vạ, bèn ngầm tìm một người có dương vật lớn tên Lao Ái, để chiều lòng Thái hậu thay mình. Quả nhiên Thái hậu nghe chuyện rồi, Lã Bất Vi vờ sai người tố cáo y phạm tội đáng thiến. Sau đó, Bất Vi lại báo với thái hậu:

- "Nên có kẻ giả bị thiến này làm chức Cấp Sự trung".

Thái hậu bèn ngầm cho kẻ coi việc thiến nhiều tiền. Viên quan coi án lại luận tội vờ, nhổ râu mày làm cho hoạn quan nhờ vậy được vào hầu Thái hậu. Thái hậu cùng y gian dâm, sinh được hai đứa con, sợ người ta biết chuyện, bèn vờ xem bói nói nên tránh mùa dời cung sang đất Ung.

 

 

Năm thứ 9 đời Tần vương Chính, có kẻ phát giác Lao Ái thực không phải là hoạn quan, thường tư thông với Thái hậu, sinh hai con đều dấu đi.

 

Tần vương Chính liền giao cho pháp đình xét, biết rõ sự tình. Việc liên quan đến Tướng quốc là Lã Bất Vi. Tháng 9, Tần vương cho người giết 3 họ nhà Lao Ái, lại giết hai con do Thái hậu đẻ ra và đày Thái hậu sang đất Ung. Nhà cửa các môn hạ của Lao Ái đều bị tịch thu và họ bị đày sang đất Thục. Tiếp đến, Tần vương muốn giết cả Tướng quốc Lã Bất Vi, nhưng vì Bất Vi thời trước có công lớn, lại được các tân khách, biện sĩ nói giúp khá đông nên không nỡ làm tội.

 

Sau đóTần Vương cách chức Tướng quốc của Lã Bất Vi. Đến khi người Tề là Mao Tiều thuyết vua Tần, vua Tần mới sang Ung đón Thái hậu về Hàm Dương như cũ và phong ấp cho Văn Tín hầu Lã Bất Vi ở Hà Nam. Được hơn một năm, các tân khách cùng sứ giả của chư hầu đến thăm Văn Tín hầu lũ lượt ở trên đường.

 

Doanh Chính sợ Văn Tín hầu làm loạn, bèn viết thư nói:

-“Ông có công gì với Tần, mà Tần phong ông ở Hà Nam, ăn thuế của mười vạn hộ. Ông thân thích gì với Tần, mà hiệu là Trọng Phụ?”

 

Rồi bắt đem cả nhà Bất Vi dời sang Thục nay là vùng Tứ Xuyên. Lã Bất Vi tự liệu sẽ bị giết, bèn uống thuốc độc tự tử. Khi đó, ông tầm 57 tuổi.

 

13.5.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét