Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2021

Chùm Thơ Tình Dài Số 301

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 13

 

Bậc chân tu tồn sinh chí tại

Bụi trần dơ chẳng ngại lau chùi

Tùy duyên nước rửa sạch mùi

Gương trong tâm sáng niềm vui thái hòa

 

Bấm ngón tay khai hoa mãn nguyệt

Thị Mầu sinh rõ thiệt con trai

Phú ông lấn bấn chi hoài

Mang lên Vân Tự mé ngoài tam quan

 

Cứ bỏ đó trở trăn gì nữa

Của nhà chùa lần lữa mãi sao?

Tiếc thương chi giọt máu đào

Thị còn lưỡng lự thì thào mẹ cha

 

Ngỡ ép chơi hoá ra lại thật

Biêt làm sao lật đật lên chùa

Cửa thiền la lối chanh chua

Thị càng đanh đá mõ khua lạnh lùng

 

Vứt núm ruột mít mùng tăm tối

Nhìn bé thơ lần cuối ra về

Vòng qua mấy ngọn tiểu kê

Xung quanh vắng lặng hoa lê thẹn thùng

 

Tiếng trẻ khóc não nùng khôn xiết

Tiểu Kính Tâm chẳng biết tính sao?

Băn khoăn do dự lẽ nào

Làm cha phận gái má đào khác chi

 

Đức hiếu sinh tu trì cửa Phật

Chốn thiền am ẩn dật bấy lâu

Oan khiên phải chịu cơ cầu

Cù lao chín chữ dãi dầu nắng mưa

 

Tình phiếu mẫu sớm trưa chiều tối

Đã nhủ lòng tìm lối cưu mang

Đầu ghềnh cuối bãi lang thang

Lạy van xin sữa đầu làng cuối thôn

 

Sáng hôm sau ôn tồn Sư phụ

Cháu họ Sùng sao chịu dưỡng nuôi

Tránh sao bóng gió xa xôi

Mỉa mai điều tiếng khắp nơi chê cười?

 

Bạch Sư phụ cảnh đời tệ bạc

Dù có xây chín bậc phù đồ

Sao bằng làm phúc cứu cho

Mạng người là quý còn lo ngại gì

 

Con không nuôi suy bì thiên hạ

Ràng buộc mình đội đá với đời

Hài nhi đâu phải trò chơi

Chẳng may chết uổng đất trời nào tha

 

Sư phụ dạy vị tha cứu thế

Tham sân si  chớ để nhuốm vào

Xưa nay nhân nghĩa cần lao

Đạo Bồ tát hạnh dạt dào bao la

 

Sư phụ khen thật là hiếm có

Tiểu Kính Tâm trả nợ trần ai

Trẻ thơ Thày gọi Thiện Tài

Kiếp xưa trói buộc mãi hoài truân chiên

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

11.7.2020 Lu Hà

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 14

 

Mẹ tò vò oan khiên con nhện

Quản chi bầy triền triện mỉa mai

Xin từng giọt sữa trần ai

Máu hòa nước lã cơm nhai nuôi người

 

Chặn họng sao lưỡi môi tỉa tót

Tiểu kia tu có trót lọt đâu

Phải chăng có đưá hoạt đầu

Mình là hai với Thị Mầu thứ ba

 

Công nuôi hộ thật là trái khoáy

Đương muộn phiền hết thảy đỡ buồn

Khi khua mõ, lúc chuông dồn

Tụng kinh lẫn tiếng ru con tối ngày

 

Thời gian trôi lá bay xào xạc

Ba mùa thu con khác cha nuôi

Hình dung dáng vóc lạ đời

Đen như củ ấu giống người đằng la

 

Nhờ cha dạy kinh ba la mật

Đọc lầu lầu trẻ thật dễ thương

Giúp cha thắp nén tâm hương

Từng pho thủ tự kim cương sẵn sàng

 

Lên sáu tuổi lại càng trí huệ

Bát nhã kinh luận để từng chương

Sáng soi ngũ uẩn giai không

Thiện Tài chiếu kiến tinh thông diệu huyền

 

Cha nuôi dạy chân truyền uy dũng

Kéo hết tơ nhện cũng về già

Mừng con giáo lý trau tria

Lớn khôn giác ngộ khắc bia tạc lòng

 

Theo đức hạnh gương trong sáng láng

Giống cha nuôi hành trạng ung dung

Thông minh đĩnh đạc vô cùng

Ba ngôi tam bảo thủy chung trọn đời

 

Một khoảng khắc chơi vơi sắc lá

Hoa ủ màu sỏi đá tả tơi

Bỗng nhiên cha gọi Tài ơi!

Chẳng còn lâu nữa phải dời xa con

 

Viết lá thư nguồn cơn kể rõ

Gửi song thân còn ở Lũng tài

Dặn dò ngăn cách trần ai

Cha về rừng tía Phật đài quang vinh

 

Chờ buông xả tự mình quán chiếu

Phật độ tăng vi diệu tâm linh

Thiện Tài như bóng với hình

Dứt lời cha mới lặng thinh tọa thiền

 

Hơi thở ngắn triền miên giấc ngủ

Trẻ thơ ngây Sư phụ báo tin

Mọi người ngơ ngác giờ thìn

Âm dương cách trở đứng nhìn lệ rơi!

 

Mấy sư đệ rụng rời kể lể

Tiểu Kính Tâm thân thể nữ nhi

Sư ông nghe nói hồ nghi

Vãi đâu khám nghiệm có gì lại thưa.

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

12.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 15

 

Án Kính Tâm vẫn chưa sáng tỏ

Liệm tử thi mới rõ đàn bà

Giác linh về cõi Phật đà

Thị Mầu là đứa điêu ngoa lạc loài

 

Trình Sư phụ ra ngoài thôn xóm

Đồn khắp làng từng nhóm đổ ra

Thiện nam tín nữ xót xa

Mõ truyền loan báo cả nhà phú ông

 

Khoán tài vật cửa không đã nộp

Theo lệ làng bắt gộp làm hai

Ma chay phúng điếu trong ngoài

Họ Sùng đổ vạ cho ai được nào?

 

Tiểu Thiện Tài gọi vào Sư hỏi

Cha lâm chung trăng trối điều gì?

Bạch Thày trong đó đã ghi

Bốn thư di chúc tức thì trao tay

 

Gửi cha mẹ Lũng tài quận nọ

Lá thứ hai Sư phụ chư tăng

Thị Mầu Thiện Sĩ rõ ràng

Trắng đen thấy cả mọi đàng phân minh

 

Ả dâm dục trước đình chịu tội

Khai thằng Nô gian dối bấy lâu

Aó sô khăn trắng quấn đầu

Sùng ông mốc mặt Thị Mầu mẫu thân

 

Nỗi ô nhục tâm thần bấn loạn

Cùng thằng Nô bầu bạn suối vàng

Gà đồng mèo mả bẽ bàng

Cô hồn ngạ quỷ lang thang bụi bờ

 

Thương cảm thay dật dờ đom đóm

Buổi xế chiều lọm khọm Mãng ông

Mãng bà chống gậy lưng còng

Nhận thư từ chốn cửa không gửi về

 

Thư thấm lệ dãi dầu sương gió

Nỗi oan khiên năm đó giãi bày

Cái râu mọc ngược cho hay

Tình nghi mưu sát đọa đày đến nay

 

Hai vụ án đắng cay oan nghiệt

Án giết chồng thảm thiết dâm ô

Giả trai đâu phải ni cô

Dân làng phạt vạ chày vồ tả tơi

 

Thiện Sĩ cũng tuôn rơi ngấn lệ

Bao năm trời cô lẻ một mình

Vào ra chiếc bóng in hình

Ngọn đèn bức vách điêu linh não nùng

 

Cả ba lại cùng chung cảnh ngộ

Người mất con kẻ vợ xa lìa

Gánh sầu san sẻ phân chia

Mong sao tới kịp mộ bia khóc thầm

 

Đường gập ghềnh ầm ầm thác đổ

Qua tây hồ cổ độ trăng soi

Lao xao cá nước mặn mòi

Chuông chùa thúc giục kịp thời tới nơi.

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

12.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 16

 

Chùa Pháp Vân mọi người đông đủ

Lập đàn chay Sư phụ điếu văn

Dân làng tỉnh ngộ ăn năn

Cây rung hạt lệ trở trăn nỗi niềm

 

Con ngọc thỏ bên thềm ảm đạm

Mò kim vàng thê thảm trăng rằm

Ngư trầm nhạc lạc tin thăm

Hồ sâu tôm cá sủi tăm bóng chìm

 

Đã bấy lâu im lìm dáng nguyệt

Mảnh lưỡi liềm da diết nhớ thương

Giận mình lỗi đạo cương thường

Gánh tình đổ vỡ giữa đường trắng tay

 

Di thể lạnh đắng cay còn thấy

Ở nơi này nhờ cậy thiền môn

Đầm đìa khóe hạnh trào tuôn

Sen vàng bảng lảng nửa hồn gió mây

 

Đã một thời vui vầy hoa bướm

Yếm xuân đào thấm đượm sương mai

Nào ngờ nghiệp qủa khứ lai

Tai bay vạ gió bi ai lạnh lùng

 

Cơn sóng vỗ chập chùng biển cả

Khúc tiêu sầu vàng đá phôi pha

Sớm khuya tựa cửa mẹ cha

Vào ra ngóng đợi cảnh nhà quạnh hiu

 

Chán nhân gian buồn thiu gió thổi

Dấu niết bàn lặn lội tới đây

Thiền am bát nước vơi đầy

A di đà Phật bấy chầy chân kinh

 

Đồ cúng tế anh minh tam bảo

Huyền diệu thay thơm thảo hương lân

Nhiệm mầu kết đóa tường vân

Thích Ca linh hiển toàn thân đạo vàng

 

Lời sang sảng ngân vang kinh kệ

Tiểu Kính Tâm giáng thế quang lâm

Vinh thăng là Phật Quán Âm

Hồng hài nhi trọn tình thâm Thiện Tài

 

Gọi đồng tử bên ngài hầu cận

Thiện Sĩ thì tủi hận đứng bên

Hóa thành chim vẹt cho nên

Muôn đời học nói đài sen tọa thiền

 

Kìa hai khóm thung huyên phúc hậu

Tỏ tấm lòng phụ mẫu cù lao

Phất trần thong thả thanh tao

Một nhà siêu thoát cảnh nào vui hơn

 

Chốn bồng lai chập chờn sóng nhẹ

Sợi lông hồng cũng dễ chìm ngay

Ba nghìn thế giới nào hay

Không sinh không diệt hương say niết bàn

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

13.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 17

 

Thư để lại chứa chan nhân thế

Gửi mẹ cha kể lế nguồn cơn

Ơn sơn hải, phận tủi hờn

Phù du bèo dạt dập dờn hồng nhan

 

Thân liễu bồ gian nan quan ải

Tấm lòng son gửi lại đôi hàng

Xích thằng đổi lấy kim thằng

Cắt râu nên nỗi thiếp chàng biệt ly

 

Phải chạy trốn bát y tầm đạo

Xuống tóc rồi tam bảo thuận duyên

Ngưu Lang, Chức Nữ đôi bên

Ngân hà xa cách thung huyên xa vời

 

Với hương phấn thẹn lời non nước

Gánh hiếu đành thổn thức khóc than

Dặm trường cách trở quan san

Mẹ cha già yếu dao hàn cắt da

 

Miền bát nhã la đà mây khói

Nương thuyền từ vượt khỏi sóng mê

Quang minh đuốc tuệ bốn bề

Thành sầu bến giác ngộ về chân kinh

 

Nơi Vân tự chày kình mõ gõ

Bỗng từ đâu bể khổ vây quanh

Thị Mầu mưa máu gió tanh

Giở trò ái dục hóa thành dở dang

 

Thuở làm vợ bẽ bàng thất tiết

Lúc làm trai mất nết oan tình

Học theo trời đất hiếu sinh

Nuôi người cam chịu nhục hình mỉa mai

 

Cũng bởi tại khứ lai đòi đoạn

Nên đời con lận đận khổ đau

Tưởng rằng dưa muối tương rau

Nâu sồng y bát kinh cầu thảnh thơi

 

Nào ngờ đâu tả tơi thân xác

Bị đánh đòn phờ phạc tháng ngày

Bồ hòn ngậm đắng nuốt cay

Xanh xao cành liễu lắt lay gió lùa

 

Trải mấy thâu bốn mùa hiu quạnh

Nuôi con thơ khổ hạnh xiết bao

Bàn dân thiên hạ xôn xao

Ruột đau chín khúc dạ bào xót xa

 

Tránh sao khỏi người ta đàm tiếu

Chú tiểu dâm phải chịu đọa đày

Cho nên con viết thư này

Nghiêm từ trăm lạy trả vay nợ đời!

 

Bệnh càng nặng chơi vơi đất khách

Đành ra đi dám trách chi ai

Dù cho lạc nẻo tuyền đài

Hay về Phật quốc thiên thai non bồng.

 

Xin hết truyện

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

13.7.2020 Lu Hà

 

 

 

Thượng Lộ Siêu Thăng

Cẩn bái Cụ Lư Văn Quảng

 

Hưởng dương chín sáu năm trời

Buồn vui khổ lụy cảnh đời ly tan

Cả nhà cáo phó khóc than

Âm dương cách trở quan san hải hà

 

Chuông chùa văng vẳng gần xa

Mênh mông rừng tía Phật Đà tùng khê

Chay đàn non nỉ tỉ tê

Vãn sinh tịnh độ tràn trề niềm vui

 

Giác linh cần mẫn lui cui

Trọn đời tần tảo đủ mùi trần ai

Buông tay hỉ sả thiện tai

Quan Âm Bồ Tát khứ lai vẹn tròn

 

Tấm lòng Cụ mãi sắt son

Giang san tổ quốc nước non vững bền

Chiều hè khắc khoải đỗ quyên

Tà dương đưa tiễn về miền phiêu diêu

 

Dặn dò chưa hết mọi điều

Cháu con chen chúc bóng chiều tịch dương

Cần Thơ mảnh đất quê hương

Tây Đô vắng bóng hoài thương nhớ người

 

Quên sao giọng nói tiếng cười

Cụ Lư Văn Quảng thảnh thơi đi rồi

Ba ngàn thế giới xa xôi

Làm sao thăm hết bồi hồi áng mây

 

Hạc vàng hoan hỉ vui vầy

Ninh Kiều Mỹ Khánh canh chầy sương rơi

Phố phường nô nức rong chơi

Thuyền ai thấp thoáng biển khơi chập chùng.

 

15.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Thục Nữ Sầu Ca

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 1

 

Than ôi, trong cõi trần ai

Người bần kẻ phú tiền tài ganh đua

Loanh quanh chỉ có bốn mùa

Vần xoay con tạo trêu đùa bướm hoa

 

Hồng nhan sao lại nhạt nhòa

Tháng ngày lần lữa một tòa thiên nhiên

Trữ La sóng sánh đào nguyên

Mà sao phận bạc tơ duyên hững hờ

 

Ao sâu cá lội lờ đờ

Soi gương bóng nguyệt đợi chờ lang quân

Thuyền quyên son phấn tần ngần

Đò ngang thấp thoáng bao lần ngẩn ngơ

 

Hoàng hôn lấp ló đôi bờ

Cùng ai tâm sự u ơ nỗi  buồn

Sắc tài thu cả vào khuôn

Giọt sương lã chã như tuôn mạch sầu

 

Nắng mưa tầm tã mái đầu

Mẹ cha phụng dưỡng đĩa dầu hư hao

Nửa đêm gà gáy lao xao

Canh ba ngồi dậy nghẹn ngào lệ rơi!

 

Chống tay nghiền ngẫm sự đời

Bâng khuâng tư lự mấy lời thở than

Nghĩ mình non nước giang san

Đóa hoa diễm lệ vô vàn thanh vân

 

Thướt tha yểu điệu mỹ nhân

Dự hàng quốc sắc phi tần kém chi

Ngọc ngà trau chuốt lễ nghi

Trầm trồ thiên hạ rầm rì trúc mai

 

Thơm như bông bưởi cam lài

Vẻ hồng tao nhã trâm cài yến anh

Ngây thơ như búp non cành

Công dung ngôn hạnh liễu xanh dịu dàng

 

Cũng là thục nữ đoan trang

Nam phong gia huấn mơ màng kiếm cung

Hỡi ai nam tử chí cùng

Giốc bầu Lý  Bạch thư hùng thấp cao

 

Hương lân nô nức yếm đào

Giai nhân tài tử dạt dào sóng thu

Vẳng nghe tiếng sao vi vu

Buồm ai thấp thoáng ngao du bến tình

 

Mà sao ta vẫn một mình

Ngọn đèn le lói dáng hình Hằng Nga

Cung sầu ca thán gốc đa

Thương con ngọc mưa sa não nùng.

 

*Nguyên tác song thất lục bát “ Bần Nữ Thán“

14.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Thục Nữ Sầu Ca

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 2

 

Ngoài khơi sóng gió chập chùng

Con thuyền vô định anh hùng tả tơi

Thủy chung cá nước mặn mòi

Đợi chờ khắc khoải trăng soi dặm trường

 

Xôn xao lữ khách thập phương

Gieo cầu bao kẻ vấn vương quanh thềm

Tiểu thư ẻo lả buông rèm

Văn khôi bảng giáp nư thèm tuyết băng

 

Những là son phấn điểm trang

Sửa sang thước ngọc nhà vàng cũng nên

Trầm trồ thục nữ thuyền quyên

Liễu xanh ngăn ngắt phẩm tiên thì thào

 

Đa đoan con tạo vận vào

Hồng nhan bạc mệnh lao đao kiếp người

Ai hay Nguyệt Lão trêu ngươi

So dây nối chỉ khóc cười dở dang

 

Rủi may trông sợi xích thằng

Đành hanh chi mấy ả Hằng kia ơi

Khăng khăng giữ giá chẳng rời

Cán cân xô lệch chơi vơi phiến sầu

 

Sương sa tuyết trắng mái đầu

Muối tiêu điểm hạt còn đâu vẻ hồng

Bướm hoa dan díu non bồng

Riêng ta thổn thức nghe chuông luân hồi

 

Kiếp này đến thế thì thôi

Thanh khâm món nợ xa xôi cuối trời

Quên sao giọng nói nụ cười

Dật dờ xế bóng đợi người đằng la

 

Dấm chua bắt ép người ta

Nghe sư tử hống Phật đà chân kinh

Trách người nhân thế vô tình

Thanh kỳ bỏ vắng tiết trinh xem thường

 

Nhạt mùi xuân sắc phấn hương

Chỉ tham bông thắm chán chường hoa thơm

Gần kề nhen nhóm lửa rơm

Ao sâu cá lặn quẳng đơm ném cần

 

Hồn mây thơ thẩn tần ngần

Bon chen thiên hạ hết phần của ta

Nghĩ gần rồi lại nghĩ xa

Hẩm hiu số phận sinh ra làm người

 

Hờn căm tạo hóa đất trời

Đọa đày chi mãi cảnh đời oan gia

Loanh quanh không lẽ đến già

Không người nối giõi mộ bia hương  tàn

 

*Nguyên tác song thất lục bát “ Bần Nữ Thán“

14.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Thục Nữ Sầu Ca

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 3

 

Linh hồn uổng tử khóc than

Phong đô giá lạnh trần gian hững hờ

Hoàng hôn đom đóm dật dờ

Khổ đau ma nữ đôi bờ trầm luân

 

Dòng sông tình ái bần thần

Ong chê bướm chán tủi thân liễu đào

Ô hay số phận là sao?

Cánh hoa phượng vĩ  nghẹn ngào tiếng ve

 

Trúc mai rầu rĩ tỉ tê

Nắng mưa tầm tã não nề cuốc kêu

Phù du bèo bọt lều bều

Thua son kém phấn căn lều xác xơ

 

Loe hoe mấy khóm bơ vơ

Một thời liễu thắm ai ngờ hôm nay

Tỳ bà gảy khúc đắng cay

Nấm mồ vô chủ cỏ may mịt mù

 

Trường giang gió thổi âm u

Tiêu sầu ai oán vi vu sớm chiều

Vầng trăng ảm đạm cô liêu

Sương rơi lã chã tiêu điều cô thôn

 

Xóm nghèo tiền bạc đuổi dồn

Bát cơm manh áo lệ tuôn đôi hàng

Ngược xuôi gồng gánh lang thang

Ngày hai buổi chợ bẽ bàng ỉ ôi

 

Người ăn oản, kẻ đơm xôi

Xem xăm bói quẻ tình trôi bến nào

Thủy triều lên xuống rì rào

Dã tràng xe cát má đào lần khân

 

Người tám lạng, kẻ nửa cân

Ong ve bướm vãn đào xuân lững lờ

Ngán thay con cá lờ đờ

Mồi câu chẳng cắn đợi chờ chi ai?

 

Đêm nằm mơ cõi thiên thai

Kén người lương đống văn tài tao nhân

Khát khao một đấng lang quân

Côn quyền dư sức kinh luân làm chồng

 

Tiếc thay nắng rám má hồng

Chân chim rạn nứt đèn lồng ai mua

Một năm chỉ có bốn mùa

Mùa thu man mát thêu thùa ái ân

 

Buồn thay nàng Trác Văn Quân

Cung đàn Tư Mã bao lần xuân thu

Giai không tứ đại tình thù

Đỗ quyên thổn thức đường tu vụng về.

 

*Nguyên tác song thất lục bát “ Bần Nữ Thán“

15.7.2020 Lu Hà

 

 

 

Thục Nữ Sầu Ca

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 4

 

Đường đi dặm nẻo sơn khê

Nhịp cầu ô thước não nề mưa rơi

Ngưu Lang ở cuối chân trời

Mải vui quên hết bao lời nhỏ to

 

Trời cao vùng vẫy cánh cò

Cao lâu tửu quán tự do ái tình

Để cho Chức Nữ một một mình

Xanh xao vàng võ bóng hình mảnh mai

 

Người ta gương lược trâm cài

Thắt lưng dải yếm nét ngài thanh cao

Kiệu hoa pháo nổ xôn xao

Riêng ai một nỗi nghẹn ngào châu sa

 

Tường đông ong bướm la đà

Con chim chèo bẻo mái nhà mỉa mai

Tràng An cành liễu Chương Đài

Còn đâu lá thắm tàn phai mất rồi

 

Thuyền đông tấp nập bồi hồi

Dòng sông xuân hạ nổi trôi dâu bèo

Thu đông gió lạnh hắt heo

Ngọn đèn chiếc bóng xóm nghèo quạnh hiu

 

Lòng càng rầu rĩ buồn thiu

Rắp toan hỏi nguyệt ỉu xìu thăm hoa

Phòng the lã chã nhạt nhòa

Tay thêu rối chỉ lòa xòa tóc mây

 

Tiếng gà eo óc canh chầy

Mềm môi chén rượu ngất ngây giải phiền

Nỗi niềm u uẩn sầu miên

Cờ tiên lạc nước thơ tiên bí vần

 

Đêm thanh vắng, dạ tần ngần

Âm thầm với bóng bần thần ủ ê

Chao đèn lay lắt phòng khuê

Gương mờ lệ hải giấc hòe dở dang

 

Non tây chênh chếch trăng vàng

Dòm song cửa sổ mơ màng heo may

Tháng ngày gió cuốn lá bay

Ngắm trăng Tố nữ đắng cay tấc lòng

 

Tuổi xuân con gái long đong

Thôi đành cam chịu theo dòng thời gian

Thoát sao thân phận bần hàn

Vào ra thểu não phím đàn so dây

 

Trời già ghen tỵ đọa đầy

Hóa công sao nỡ đặt bầy nhiêu khê

Buồn trông cánh hạc trăng thề

Núi cao tuôn khói bốn bề héo hon

 

Còn người còn nước còn non

Còn chòm mây bạc ta còn thăm nhau

Quản chi nắng rát bạc màu

Mưa tầm giông bão nát nhàu cỏ cây.

 

*Nguyên tác song thất lục bát “ Bần Nữ Thán“

16.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét